Phẫu thuật nâng to ngực hiện nay rất phổ biến tại Việt Nam do tố chất người Á Đông có bộ ngực khiêm tốn
và cùng với đời sống được nâng cao cho phép họ cải thiện ngoại hình. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ kỹ thuật
trong việc chế tạo túi ngực cũng như kỹ thuật mổ, phẫu thuật đặt túi ngực vẫn còn nhiều biến chứng hay
kết quả không vừa ý, đôi khi dẫn đến những khiếu kiện giữa bệnh nhân và bác sĩ rất phiền phức. Biến
chứng khó chịu nhất về tần suất xuất hiện cũng như mức độ ảnh hưởng đến thẩm mỹ và sức khỏe của bệnh
nhân là bao xơ co thắt. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm những tiêu chí về kỹ thuật để giúp cho phẫu
thuật nâng to ngực bằng túi trở thành một phẫu thuật an toàn, ít biến chứng, ít phải mổ lại và thỏa được
nhu cầu về thẩm mỹ cho bệnh nhân.
Đối tượng và phương pháp: Số lượng bệnh nhân gồm 224 trường hợp được mổ nâng to ngực bằng cách
đặt túi ngực. Kỹ thuật mổ: đường vào được chọn: đường nếp dưới vú. Khoang đặt túi: dưới cơ ngực lớn. Kỹ
thuật bóc tách: bằng dao điện. No Touch technic. Áp dụng kỹ thuật vô trùng nghiêm ngặt. Túi ngực được chọn:
túi gel tròn nhám và túi giọt nước. Không đặt dẫn lưu.
Kết quả: 224 trường hợp đã được mổ theo kỹ thuật nêu trên; 40% được đặt túi tròn nhám và 60% được đặt
túi giọt nước. Thời gian theo dõi từ 6 tháng đến 3 năm. Tỷ lệ bao xơ co thắt: 0, tỷ lệ sẹo xấu là 20/224, 1 trường
hợp nhiễm trùng 1 bên phải mổ lấy túi ra, 1 trường hợp ngực nhỏ phải mổ lại đặt túi lớn hơn. Kết quả chung đạt
rất tốt và tốt là 96%.
Kết luận: Nghiên cứu này đã chứng tỏ kỹ thuật mổ dùng đường vào dưới nếp vú, đặt túi dưới cơ và sử
dụng túi nhám, túi giọt nước là một phương pháp phối hợp nâng to ngực an toàn và thỏa được những đòi hỏi về
thẩm mỹ. Các biến chứng như bao xơ co thắt được giảm đến mức tối đa trong thời gian theo dõi 3 năm
11 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuẩn hóa phương pháp đặt túi ngực qua đường nếp dưới vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 48
CHUẨN HÓA PHƯƠNG PHÁP ĐẶT TÚI NGỰC
QUA ĐƯỜNG NẾP DƯỚI VÚ
Lê Hành*
TÓM TẮT
Phẫu thuật nâng to ngực hiện nay rất phổ biến tại Việt Nam do tố chất người Á Đông có bộ ngực khiêm tốn
và cùng với đời sống được nâng cao cho phép họ cải thiện ngoại hình. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ kỹ thuật
trong việc chế tạo túi ngực cũng như kỹ thuật mổ, phẫu thuật đặt túi ngực vẫn còn nhiều biến chứng hay
kết quả không vừa ý, đôi khi dẫn đến những khiếu kiện giữa bệnh nhân và bác sĩ rất phiền phức. Biến
chứng khó chịu nhất về tần suất xuất hiện cũng như mức độ ảnh hưởng đến thẩm mỹ và sức khỏe của bệnh
nhân là bao xơ co thắt. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm những tiêu chí về kỹ thuật để giúp cho phẫu
thuật nâng to ngực bằng túi trở thành một phẫu thuật an toàn, ít biến chứng, ít phải mổ lại và thỏa được
nhu cầu về thẩm mỹ cho bệnh nhân.
Đối tượng và phương pháp: Số lượng bệnh nhân gồm 224 trường hợp được mổ nâng to ngực bằng cách
đặt túi ngực. Kỹ thuật mổ: đường vào được chọn: đường nếp dưới vú. Khoang đặt túi: dưới cơ ngực lớn. Kỹ
thuật bóc tách: bằng dao điện. No Touch technic. Áp dụng kỹ thuật vô trùng nghiêm ngặt. Túi ngực được chọn:
túi gel tròn nhám và túi giọt nước. Không đặt dẫn lưu.
Kết quả: 224 trường hợp đã được mổ theo kỹ thuật nêu trên; 40% được đặt túi tròn nhám và 60% được đặt
túi giọt nước. Thời gian theo dõi từ 6 tháng đến 3 năm. Tỷ lệ bao xơ co thắt: 0, tỷ lệ sẹo xấu là 20/224, 1 trường
hợp nhiễm trùng 1 bên phải mổ lấy túi ra, 1 trường hợp ngực nhỏ phải mổ lại đặt túi lớn hơn. Kết quả chung đạt
rất tốt và tốt là 96%.
Kết luận: Nghiên cứu này đã chứng tỏ kỹ thuật mổ dùng đường vào dưới nếp vú, đặt túi dưới cơ và sử
dụng túi nhám, túi giọt nước là một phương pháp phối hợp nâng to ngực an toàn và thỏa được những đòi hỏi về
thẩm mỹ. Các biến chứng như bao xơ co thắt được giảm đến mức tối đa trong thời gian theo dõi 3 năm
Từ khóa: Túi ngực gel định hình, túi giọt nước, đường mổ nếp dưới vú, khoang đặt túi dưới cơ, bao xơ co
thắt, nhiễm trùng dưới lâm sàng, no touch technique.
ABSTRACT
IMPLANT BREAST AUGMENTATION USING INFRAMAMMARY APPROACH
Le Hanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 – 2011: 48 - 58
The demand of improving the appearance of the breasts through surgery for Asian women who naturally
have small, flat chests and lead a well-improved life are always popular. In spite of much technical progress made
in manufacture of breast implants as well as surgical techniques, surgical breast augmentation remains many
complications and unsatisfying results which sometimes cause annoying claims between the surgeon and his
patient. The most uncomfortable side-effect on frequency and as well as effective level towards aestheticism and
patients’ health is capsular contracture. The goal of this study is to standardize surgical techniques of breast
augmentation in order to help it become safe with less complications and reoperation rate and finally, meet the
satisfaction of patients.
Object and method: The patients in our series are women with undesirable breasts: flat, small, under
* Khoa Phẫu Thuật Tạo Hình Thẩm Mỹ Bệnh Viện Chợ Rẫy;
Tác giả liên lạc: TS.BS. Lê Hành ĐT: 0913909426 Email: drlehanh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 49
volume, sagging, asymmetric who want to have an improvement using the implant breast augmentation.
Surgical technique : selected approach : inframammary; pocket: submuscular; dissection method; using
hyfrequency scapel; no-touch technique; strictly aseptic technique applied; implant selected: texture round or
anatomic shape; Drainage: none .
Result: 224 cases were given the above mentioned surgical technique; 40% of which were inserted texture
round implants; the rest were placed anatomic implants .The follow-up period is from 6 months to 3 years. Rate
of the capsular contracture: 0. Rate of unexpected scars: 20 / 224. A case infected on one side, an bilateral
explantation has been done . One reoperation case for changing to a bigger implant size.
Conclusion: This study demonstrates that the breast augmentation using the inframammary approach ,
submuscular pocket, texture and anatomic implants, strictly aseptic manipulation is a surgical technique of safe
breast augmentation and satisfaction of aesthetic requirements. The side-effects such as capsular contracture are
decreased at maximum in 3 years’ follow-up.
Key words: Cohesive breast implant, anatomic implant, inframammary approach, submuscular pocket,
subclinical infection, capsular contracture, capsulectomy, no touch technique.
Tố chất di truyền của đa số người Á đông
cho một khuôn ngực nhỏ. Trong trào lưu hiện
nay, trong điều kiện kinh tế ổn định, việc cải
thiện ngoại hình cho phù hợp, hấp dẫn của phụ
nữ trở nên quan trọng, trong đó, nâng to ngực
thẩm mỹ bằng cách đặt túi ngực là một phẫu
thuật có nhu cầu cao và ngày càng tăng dần.
Phẫu thuật nâng to ngực bằng túi dễ gặp
những biến chứng và những kết quả không vừa
ý rất riêng vì: (1) túi ngực là một vật lạ đối với
cơ thể; (2) tuyến vú rất mong manh, dễ bị tổn
thương; (3) hai bên vú cần cân đối; (4) tính thẩm
mỹ được đòi hỏi cao và vú là một bộ phận dễ
phơi bày, nhìn ngắm.
Bao xơ co thắt là biến chứng hay gặp và
phiền toái nhất, xảy ra trên cả túi ngực gel hay
nước muối sinh lý.
Mục tiêu của nghiên cứu này là:
Xác định đường dưới nếp vú, khoang đặt túi
dưới cơ, túi giọt nước, áp dụng các biện pháp vô
trùng tuyệt đối là những chọn lựa cần thiết
trong phẫu thuật nâng to vú nhằm đạt yêu cầu
về thẩm mỹ và giảm tối đa các biến chứng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Những bệnh nhân có nhu cầu nâng to ngực
thẩm mỹ và được thực hiện phẫu thuật nâng to
ngực tại bệnh viện.
Thời gian nghiên cứu thực hiện từ 6/2008
đến 8 / 2010.
Phương pháp nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu tiền cứu mô tả từng
ca, có can thiệp.
+ Yếu tố chung: Giới, tuổi, nghề nghiệp
+ Xét nghiệm cân lâm sàng : xét nghiệm cơ
bản, siêu âm vùng vú, nhũ ảnh
+ Chọn túi ngực:
Theo kích thước vùng ngực.
Sơ đồ các thông số vùng ngực để chọn túi.
- Độ rộng của nền vú được tính cách
đường giữa xương ức đến đường nách trước.
- Chiều cao từ hõm ức đến đầu vú
- Khoảng cách giữa 2 đầu vú
- Khoảng cách giữa đầu vú và nếp
dưới vú.
- Độ dày của mô mềm tuyến vú
- Độ nhão của mô tuyến vú
2 loại túi: giọt nước và túi tròn, nhám
Kích thước: từ 200 đến 380 cc
Khuyến khích bệnh nhân dùng túi giọt
nước, nhất là trên những bệnh nhân vú nhỏ, lép.
+ Phẫu thuật:
1. Gây mê nội khí quản hay dùng mặt nạ
thanh quản.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 50
2. Biện pháp vô trùng: tối đa:
- Kháng sinh tiền phẫu.
- Rửa da kỹ bằng Microshield, lau lại bằng
Betadine.
- Trải opsite
- Rửa hố mổ bằng dung dịch Vancomycine
- “No touch technique” (14): rửa sạch bột
trên găng tay, chỉ một mình phẫu thuật viên
được chạm vào túi ngực.
- Cho dung dịch Vancomycine vào bao đựng
túi trước khi mở ra để tránh tĩnh điện trên vỏ túi
hút bụi trong không khí bám vào.
3. Chiếu sáng: dùng đèn đầu hay cái banh có
nguồn sáng. Các thao tác phẫu thuật được kiểm
soát chính xác với tầm nhìn trực tiếp.
4. Đường vào: Đường nếp dưới vú trong
tuyệt đại đa số các trường hợp.
- Khoảng cách từ đầu vú đến đường rạch da
trung bình là khoảng 8,5cm. Khoảng cách này sẽ
tăng hoặc giảm thêm 5mm nếu túi ngực tăng
hoặc giảm thể tích 50cc.
- Chiều dài trung bình đuờng rạch da: 3,5cm
5. Khoang đặt túi: Dưới cơ ngực lớn, kiểu
hai lớp (dual plane) 1 được dùng nhiều nhất.
6. Bóc tách:
- Bằng dao điện chỗ bám của cơ ngực lớn ở
xương sườn 5, 6. Đảm bảo không để sót thớ cơ
ngực lớn nào trong vùng cần bóc tách.
- Tôn trọng vùng cơ cạnh xương ức ở các
xương sườn còn lại. “No touch zone”
- Độ rộng của khoang đặt túi chính xác, khít
với kích thước của túi khi đặt, không rộng,
không hẹp.
7. Cầm máu kỹ
8. Rửa khoang đặt túi bằng dung dịch
Vancomycine, hút sạch khoang, tránh dùng gạc.
9. May da 3 lớp. Tái lập sự liền lạc của cân
Scarpa bằng PDS 30
Khâu da thẩm mỹ. Băng ép nhẹ
10. Không dẫn lưu trong đại đa số các
trường hợp.
+ Hậu phẫu:
1. Kháng sinh 7 ngày
2. Thay băng nhẹ
3. Giữ sạch da, massage nhẹ da, không được
massage vú.
4. Cắt chỉ sau 8 ngày (không cần cắt chỉ
trong trường hơp khâu dưới da dùng chỉ tự
tiêu)
+ Đánh giá kết quả:
Chủ quan của bệnh nhân:
Rất hài lòng
Hài lòng
Không hài lòng
Khách quan của phẫu thuật viên.
+ Hình thể thẩm mỹ vú: cân đối, mềm mại,
dáng tự nhiên.
+ Sẹo mổ: rất đẹp; đẹp; khá; lồi; xấu .
+ Biến chứng gần, biến chứng xa.
Cũng phân thành 3 loại:
Rất hài lòng
Hài lòng
Không hài lòng
KẾT QUẢ
Có 224 trường hợp nâng to ngực theo đường
nếp vú được thực hiện trong thời gian trên.
Về dịch tể học:
Bảng 1: Phân bố tuổi bệnh nhân phẫu thuật nâng
ngực
Tuổi N %
18 - 20 22 10
20 - 30 89 40
30 - 40 68 30
> 40 45 20
Tổng cộng 224 100,0
Bảng 2: Phân bố chiều cao khách hàng
Chiều cao N %
< 1.50 m 16 7
1.50 - 1.60 129 60
1.60 - 1.70 72 32
> 1.70 7 3
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 51
Chiều cao N %
Tổng cộng 224 100,0
2. Về hình thể vùng ngực và tuyến vú của
các bệnh nhân.
Bảng 3: Về hình thể vùng ngực
Hình thể vùng ngực N %
Ngực nhỏ bẩm sinh 143 64,0
Ngực thối triển sau sanh 81 36,0
Tổng cộng 224 100,0
Bảng 4: Về hình thể tuyến vú
Hình thể tuyến vú N %
Ngực không cân đối cần điều chỉnh bằng
túi thể tích khác nhau 38 9,7
Ngực sa xệ cần kết hợp phẫu thuật treo
quầng-núm vú 20 5,1
Tổng cộng 224 100,0
Bảng 5. Phân bố thể tích túi ngực được đặt
Thể tích túi ngực được đặt N %
200 - 220 12 5,1
240 – 260 57 25,5
280 - 300 134 59,9
> 300 21 9,5
Tổng cộng 224 100,0
Bảng 6. Phân bố loại túi ngực được dùng
Loại túi ngực Số bệnh nhân %
Túi gel, tròn, nhám 90 40,0
Túi giọt nước 134 60,0
Tổng cộng 224 100,0
Bảng 7: Loại túi ngực giọt nước
Loại túi ngực N %
LM 24 10,2
MM 34 14,4
MF 82 34,9
FF 93 39,6
FX 2 0,9
Tổng cộng 235 100,0
Bảng 8: Loại túi tròn
Loại túi ngực N %
Ðộ nhô cao 87 55,4
Ðộ nhô trung bình 55 35,0
Ðộ nhô thấp 15 9,6
Tổng cộng 157 100,0
Bảng 9. Khoang đặt túi ngực
Khoang đặt túi ngực N %
Dưới fascia 22 9,7
Dưới cơ ngực lớn 202 90,3
Tổng cộng 224 100,0
Trong đó, dual plane:
Bảng 10: Phân loại dual plane
Loại dual plane N %
I 157 70,1
II 45 20,0
III 22 9,9
Tổng cộng 224 100,0
Thời gian phẫu thuật
Trung bình khoảng 45 phút cho đến 1 giờ.
Chăm sóc hậu phẫu
Do không đặt ống dẫn lưu nên việc chăm
sóc hậu phẫu cực kỳ đơn giản. Băng sạch vết
thương, dùng kháng sinh giảm đau. Có thể thoa
thuốc chống sẹo vào ngày thứ 3 sau mổ. Cắt chỉ
sau 8 ngày. Nếu khâu dưới da và dùng chỉ tiêu
thì không cần cắt chỉ.
Thời gian nằm viện là 1 ngày. Nếu bệnh
nhân muốn có thể ra về buổi chiều trong ngày.
Về các biến chứng
Biến chứng trong và sau khi đặt túi:
Bảng 11. Biến chứng sau mổ
Biến chứng Số trường hợp Xử trí
Máu tụ một bên 1 Mở hố mổ, tháo túi, lấy
sạch máu bầm, đặt lại túi
Máu tụ hai bên 1 Mở hố mổ, tháo túi, lấy
sạch máu bầm, đặt lại túi
Biến chứng sớm (1 tháng sau mổ)
Không có.
Biến chứng muộn
Bảng 12. Biến chứng muộn
Biến chứng Số ca Xử trí
Nhiễm trùng
chậm ( 6 tháng
sau mổ)
1 Bị bên ngực (T). Tháo túi ngực.
Làm sạch hố mổ, dẫn lưu,
kháng sinh.
Bao xô co thaét
cần xử trí
0 0
Đường mổ không
cùng cao độ
2 0
Lệch túi 0 0
Seïo xaáu caàn
xöû trí
20 Chích Triamcinolone 10 trường
hợp
Moå chænh seïo 4
Thay ñoåi caûm 5 Töï hồi phục sau 2-3 tháng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 52
Biến chứng Số ca Xử trí
giaùc da, quaàng
vuù taïm thôøi
Bảng 13: Phân loại sẹo xấu
Loại sẹo Số ca Tỷ lệ (%) Xử trí
Sẹo lồi 4 1,0 Cắt sẹo, khâu thẩm
mỹ và chống sẹo lồi
bằng cách chích
Triamcinolone +
5FU và silicone
sheet.
Sẹo quá phát 10 2,6 Cắt sẹo, khâu thẩm
mỹ và chống sẹo tái
phát bằng cách
chích Triamcinolone
và silicone sheet.
Sẹo giãn 2 0,5 0
Sẹo tăng sắc tố 4 1,0 0
Sẹo giảm sắc tố 0 0 0
Tổng cộng 20 5,1
Về kết quả phẫu thuật
Bảng 14:. Kết quả chủ quan
Mức độ đánh giá N Tỷ lệ (%)
Rất hài lòng 100 44,6
Hài lòng 123 54,9
Không hài lòng 1 0,5
Tổng cộng 224 100,0
Bảng 15: Kết quả khách quan
Mức độ đánh giá N Tỷ lệ (%)
Rất hài lòng 67 30,1
Hài lòng 151 67,4
Không hài lòng 6 2,5
Tổng cộng 224 100,0
BÀN LUẬN
Tổng quan về phẫu thuật nâng to vú bằng túi
ngực(13,3,10,5):
Can thiệp phẫu thuật để tăng kích thước
vú đã được đề cập tới đầu tiên từ cuối thế kỷ
19. Có nhiều báo cáo với các phương pháp
điều trị khác nhau từ ghép mỡ tới tiêm
paraffin, từ kem và các chất tổng hợp khác
nhau cho tới tiêm silicone, và ta có thể hình
dung, điều này gây ra các hậu quả tai hại. Mãi
đến những năm 1960, túi silicon phát triển và
được đem vào sử dụng. Phẫu thuật này đã
phát triển cho đến ngày nay và trở thành một
phương pháp nâng ngực an toàn.
Có 3 phần cần xác định trong phẫu thuật
nâng ngực :
- Chọn túi ngực
- Vị trí đường rạch da - đường vào phẫu thuật.
- Vị trí khoang đặt túi.
Điểm độc đáo trong phẫu thuật là không có
một mẫu chung nhất nào về loại túi ngực,
đường vào và khoang đặt túi để đạt được một
khuôn ngực đẹp chung cho mọi người. Đó cũng
chính là điểm để phẫu thuật nâng ngực trở
thành một mẫu phẫu thuật trong đó có sự kết
hợp hài hòa giữa nghệ thuật và khoa học.
Vài điểm cơ bản về giải phẫu(6)
Mạch máu
(1) Nhánh xuyên từ động mạch ngực trong,
(2) động mạch ngực ngoài, (3) động mạch ngực
lưng, (4) các nhánh liên sườn và (5) ngực đầu
vai.
Mạng mạch máu phong phú này đảm bảo
cho sự thành công của những phẫu thuật đa
dạng trên tuyến vú, kể cả các kỹ thuật thu nhỏ
vú.
Thần kinh
Theo sự phân bổ chung của thần kinh da.
Chủ yếu từ các nhánh trước ngoài và trước
trong của thần kinh liên sườn 4 và 5, thần kinh
trên đòn cho nhánh tới phần trên ngoài của vú.
Quầng núm vú nhận thần kinh từ nhánh liên
sườn thứ 4.
Cân mạc
Mạc Scarpa từ trong lớp mỡ vùng bụng che
phủ rộng lên trên vùng ngực. Ngang tầm nếp
dưới vú thì chia làm hai lớp nông và sâu ôm
quanh tuyến vú. Từ lớp mạc sâu tỏa ra các dây
chằng xuyên vào trong mô tuyến (Cooper’s
ligament) để nâng đỡ.
Khi thực hiện đường vào ở nếp dưới vú, cần
khâu kỹ lại mạc Scarpa để tránh biến chứng túi
ngực sa thấp.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 53
Chọn túi ngực(6).
Túi chứa silicone hay nước muối sinh lý
Lịch sử chế tạo túi ngực:
1950: dùng chất Ivalon, mô xơ mọc vào
trong túi độn, gây xơ cứng vú.
1960’s; Túi có vỏ bao bằng Silicone được làm
đầy bằng silicone lỏng, gel hay nước muối sinh
lý. Cho đến nay có 5 thế hệ túi gel silicone.
60’s Thế hệ 1: vỏ dày, trơn, hình giọt nước,
chứa gel lỏng, kèm mảng Dacron ở mặt sau để
tăng độ bám dính, chống xoay. Đặt dưới tuyến..
Vú cứng do bao túi dày và bao xơ trầm trọng
do dacron .
70’s Thế hệ 2: Bao túi mỏng, trơn, chứa gel
lỏng. Vú cứng, lệch, đau do bao xơ trầm trọng.
Do rò rỉ silicone lỏng qua bao.
80’s – 90’s, Thế hệ 3: Lớp vỏ dày hơn, trơn,
cùng lớp chắn, silicone gel đặc hơn, giảm độ rò
rỉ. 1980
92 – nay, thế hệ 4: Túi nhám ra đời. Chứa gel
định hình. Nhiều dạng.
93 –nay, thế hệ 5: Túi giọt nước. Đa dạng. Vỏ
bao chắc. Gel định hình, có độ nhớ, không rò,
không chảy đi nơi khác. Tỉ lệ bao xơ co thắt
giảm đến mức tối thiểu.
Túi chứa nước muối sinh lý cùng được chế
tạo và dung từ thập niên 60. Tỉ lệ bao xơ co
thắt giảm so với túi chứa gel thế hệ 2 và 3.
Điểm yếu: sờ thấy túi, túi gợn sóng, cứng hơn
và có thể bị xẹp.
Cho đến nay, không tìm thấy một bằng
chứng nào về sự liên hệ giữa túi ngực chứa
silicone gel và những bệnh toàn thân như bệnh
miễn dịch, bệnh mô liên kết, hay ung thư.
Hiện nay, FDA Hoa kỳ đã công nhận túi gel
silicone, cho phép được dùng làm to vú trong
mục đích thẩm mỹ (2006), túi chứa nước sinh lý
càng ngày càng ít được dùng.
Những túi ngực chứa silicone thế hệ đầu
tiên gây một tỉ lệ bao xơ co thắt và u hạt quanh
túi cao do sự rò rỉ silicone ra ngoài bao.
Kích thước túi
Khi dùng, cần xác định kích thước lồng
ngực, độ dày mô tuyến để chọn loại túi thích
hợp nhất theo cả 3 chiều: cao, rộng và nhô. Kích
thước túi thay đổi tù 150cc đến khoảng 800cc.
Chọn túi dựa trên kích thước của khung
xương lồng ngực; tình trạng mô mềm vùng vú,
vị trí của quầng núm vú; chiều cao và tương
quan giữa 3 vòng của thân thể.
Túi nhám hay trơn(8)
Túi ngực thế hệ đầu tiên có vỏ bao trơn.
Túi có vỏ bao nhám ra đời nhằm:
- Giảm tỉ lệ bao xơ co thắt vì làm thay đổi
hướng và và chia cắt các sợi collagen trong
quá trình hình thành bao xơ.
- Vỏ túi bám chặt vào mô chung quanh,
tránh tình trạng di lệch túi, sa xệ vú sau thời
gian dài.
Những nghiên cứu dài hơi cho thấy:
- Nếu đặt dưới tuyến, túi ngực trơn có tỉ lệ
bao xơ co thắt cao (23-40%) so với loại nhám (2
đến 20%).
- Nếu đặt túi ngực dưới cơ ngực lớn: sự khác
biệt về tỉ lệ bao xơ co thắt giảm đi
Túi tròn hay giọt nước
Túi tròn: túi có đáy hình tròn, khác nhau ở
đường kính đáy túi và độ nhô.
Túi dạng giải phẫu, định dạng hay giọt nước
được dùng để chỉ những loại túi mà đáy túi có
chiều rộng khác với chiều cao. Túi giọt nước
được định bởi 3 thông số: chiều rộng, chiều cao
của đáy túi và độ nhô. Ở túi giọt nước, chỗ nhô
cao nhất của túi không nằm ở giữa mà lệch về
phía nửa dưới của túi. Túi này giúp tạo dáng tự
nhiên hơn cho vú sau khi đặt. Một biến chứng
riêng của túi giọt nước là bị xoay. Khi mổ, cần
bóc tách khoang đặt túi vừa đủ, sau mổ cần
băng ép vùng trên ngực.
Trong nghiên cứu này chúng tôi dùng 100%
là túi nhám và chứa gel định hình, 60% số này là
túi giọt nước. Cho dù như đã nói ở trên không
có một sự liên hệ được chứng minh về khả năng
chống bao xơ co thắt tốt hơn của túi nhám,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 54
nhưng ngoài việc chống bao xơ co thắt túi nhám
còn có một ưu điểm dính vào mô xung quanh
và do đó vị trí của túi ngực được ổn định hơn
theo thời gian, ít bị sa xệ, ít bị di chuyển làm cho
hình dáng vú của bệnh nhân ổn định hơn
nhiều(4).
Sử dụng túi hình giọt nước là một bước tiến
trong kỹ thuật đặt túi và cho phép phẫu thuật
viên không chỉ tăng khối lượng của vùng ngực
mà còn tạo hình, tạo dáng bộ ngực đáp ứng với
mong muốn của bệnh nhân cũng như để bù đắp
vào những khiếm khuyết, những tật của vùng
ngực. Ví dụ như: mô tuyến không cân đối,
không đầy đủ, xương lồng ngực biến dạng,
bệnh nhân quá cao hay quá thấp, tránh được độ
nhô quá đáng, mất tự nhiên của túi ngực ở vùng
ngực trên.
Chọn đường vào để đặt túi(6,10,15)
Một đường vào được đánh giá trên 4 điểm:
Vị trí sẹo. Các kiểu rạch da đều nhằm để dấu
bớt sẹo mổ.
Cho đường vào trực tiếp hay không vào
khoang đặt túi. Từ đó xét khả năng tạo khoang
đặt túi chính xác, cầm máu tốt, thuận lợi cho
việc đặt túi. Mức độ thuận lợi khi cần mổ lại.
Mức độ gây tổn thương cho mô tuyến, các
dây thần kinh, cảm giác quầng vú.
Khả năng gặp biến chứng: bao xơ co thắt, di
lệch túi,
Có 4 kiểu đường vào:
Đường vùng quầng vú: quanh quầng vú,
qua quầng vú (periareolar, transareolar )
Đường nếp dưới vú (inframammary),
Đường nách (transaxillary),
Và đường quanh rốn (peri