Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế vào năm 1986 cho đến nay, kinh tế Việt nam đã có những bước phát triển chóng mặt và đầy triển vọng. GDP không ngừng được cải thiện, đời sống của người dân ngày càng nâng cao hơn, và trên hết vị thế về kinh tế, chính trị của Việt nam đã được biết đến và khẳng định trong mắt các nước ở khu vực và trên thế giới. Trong bước chuyển mình và phát triển đó, thì sự đóng góp của các Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp nhà nước và các Doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất đáng kể. Đặc biệt là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, với sự năng động, hoạt động trong nhiều lĩnh vực, và số lượng đông đảo của mình đã góp phần quan trọng vào việc tăng thu nhập quốc dân GDP, giảm lạm phát, giải quyết vấn đề việc làm, giúp thực hiện điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô Mặc dù vậy, trong điều kiện nền kinh tế thực hiện hội nhập hóa và toàn cầu hóa một cách toàn diện như hiện nay, thì các Doanh nghiệp ở Việt nam đã phải đối diện với những thách thức, khó khăn vô cùng lớn. Đó là sự thiếu hụt về vốn, sự lạc hậu về công nghệ, sự kém cạnh tranh trong mẫu mã, chất lượng sản phẩm, và sự thiếu linh hoạt, chất lượng lao động còn thấp.
Trước tình hình đó, để có thể nâng cao sức cạnh tranh, đóng góp của các Doanh nghiệp, việc mở rộng và phát triển hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một yêu cầu tất yếu. Nhìn nhận vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta hiện nay đã và đang có nhiều chính sách nhằm khuyến khích mở rộng và phát triển loại hình Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, mặc dù đã có nhiều ưu ái từ phía Nhà nước, nhưng các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam vẫn gặp phải nhiều khó khăn như trình độ lao động còn thấp, công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới, khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn trên xuất phát từ tiềm lực tài chính còn hạn chế. Thiếu vốn luôn luôn là trở ngại lớn cho khả năng mở rộng hoạt động và phát triển của loại hình doanh nghiệp này.
Nhận thấy nhu cầu vay vốn từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương chi nhánh Thanh Xuân đã có những chiến lược nhằm thu hút và đẩy mạnh hoạt động cho vay với đối tượng này. Tuy nhiên, hiệu quả cho vay còn chưa cao, dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới chỉ chiếm một tỷ trọng khiêm tốn trong tổng dư nợ của toàn chi nhánh, lợi nhuận cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn nhỏ, chưa tương xứng với khả năng cho vay của Ngân hàng.
Chính vì vậy, trong quá trình thực tập tại chi nhánh, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Thanh Xuân” cho bài viết chuyên đề tốt nghiệp này.
Nội dung chuyên đề tốt nghiệp, ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận bài viết chuyên đề gồm 3 phần:
- Phần một: Những lý luận cơ bản về hiệu quả cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Thương mại.
- Phần hai: Thực trạng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Thanh Xuân.
- Phần ba: Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Thanh Xuân.
88 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế vào năm 1986 cho đến nay, kinh tế Việt nam đã có những bước phát triển chóng mặt và đầy triển vọng. GDP không ngừng được cải thiện, đời sống của người dân ngày càng nâng cao hơn, và trên hết vị thế về kinh tế, chính trị của Việt nam đã được biết đến và khẳng định trong mắt các nước ở khu vực và trên thế giới. Trong bước chuyển mình và phát triển đó, thì sự đóng góp của các Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp nhà nước và các Doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất đáng kể. Đặc biệt là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, với sự năng động, hoạt động trong nhiều lĩnh vực, và số lượng đông đảo của mình đã góp phần quan trọng vào việc tăng thu nhập quốc dân GDP, giảm lạm phát, giải quyết vấn đề việc làm, giúp thực hiện điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô… Mặc dù vậy, trong điều kiện nền kinh tế thực hiện hội nhập hóa và toàn cầu hóa một cách toàn diện như hiện nay, thì các Doanh nghiệp ở Việt nam đã phải đối diện với những thách thức, khó khăn vô cùng lớn. Đó là sự thiếu hụt về vốn, sự lạc hậu về công nghệ, sự kém cạnh tranh trong mẫu mã, chất lượng sản phẩm, và sự thiếu linh hoạt, chất lượng lao động còn thấp.
Trước tình hình đó, để có thể nâng cao sức cạnh tranh, đóng góp của các Doanh nghiệp, việc mở rộng và phát triển hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một yêu cầu tất yếu. Nhìn nhận vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta hiện nay đã và đang có nhiều chính sách nhằm khuyến khích mở rộng và phát triển loại hình Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, mặc dù đã có nhiều ưu ái từ phía Nhà nước, nhưng các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam vẫn gặp phải nhiều khó khăn như trình độ lao động còn thấp, công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới, khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn trên xuất phát từ tiềm lực tài chính còn hạn chế. Thiếu vốn luôn luôn là trở ngại lớn cho khả năng mở rộng hoạt động và phát triển của loại hình doanh nghiệp này.
Nhận thấy nhu cầu vay vốn từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương chi nhánh Thanh Xuân đã có những chiến lược nhằm thu hút và đẩy mạnh hoạt động cho vay với đối tượng này. Tuy nhiên, hiệu quả cho vay còn chưa cao, dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới chỉ chiếm một tỷ trọng khiêm tốn trong tổng dư nợ của toàn chi nhánh, lợi nhuận cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn nhỏ, chưa tương xứng với khả năng cho vay của Ngân hàng.
Chính vì vậy, trong quá trình thực tập tại chi nhánh, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Thanh Xuân” cho bài viết chuyên đề tốt nghiệp này.
Nội dung chuyên đề tốt nghiệp, ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận bài viết chuyên đề gồm 3 phần:
- Phần một: Những lý luận cơ bản về hiệu quả cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Thương mại.
- Phần hai: Thực trạng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Thanh Xuân.
- Phần ba: Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Thanh Xuân.
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Từ viết tắt
1>. DNVVN
2>. DNNN
3>. TSĐB
4>. LN
5>.NHNN
6>. VLĐ
7>. TSCĐ
8>. TSLĐ
9>. NHTMCP CT
10>. TMCP
11>. NHTM
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp Nhà nước
Tài sản đảm bảo
Lợi nhuận
Ngân hàng Nhà nước
Vốn lưu động
Tài sản cố định
Tài sản lưu động
Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Công thương
Thương mại Cổ phần
Ngân hàng thương mại
Chương I : Những lí luận cơ bản về hiệu quả cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Thương mại
1.1> Các vấn đề cơ bản về Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo Luật Doanh Nghiệp 2005 số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001, Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNVVN có thể chia thành ba loại căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới (World Bank).
Trong đó :
- Doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người (tổng tài sản có trị giá không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 100.000 USD)
- Doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người (tổng tài sản có trị giá không quá 3.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 3.000.000 USD)
- Doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động (tổng tài sản có trị giá không quá 15.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 15.000.000 USD)
Ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, người ta có những tiêu chí riêng để phân loại, xác định Doanh nghiệp vừa và nhỏ .
* Tại Thái Lan, Nhật Bản, Malaisia, việc đánh giá Doanh nghiệp vừa và nhỏ phải gắn với đặc điểm của từng ngành, phải tính tới số lượng Vốn và Lao động thu hút được trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ở Nhật Bản, tiêu chí xác định DNVVN được phân chia theo vốn và số lao động, căn cứ vào lĩnh vực hoạt động cụ thể:
Bảng1.1: Tiêu chí xác định DNVVN ở Nhật Bản
Số lao động
Vốn (triệu USD)
Lĩnh vực sản xuất
Không quá 300
Không quá 3
Lĩnh vực buôn bán
Không quá 100
Không quá 1
Lĩnh vực bán lẻ
Không quá 50
Không quá 0,5
Nguồn: Trung tâm hợp tác nguồn nhân lực Việt Nam – Nhật Bản (VJCC)
Ở Thái Lan, theo qui định của Bộ Công nghiệp nước này, DNVVN được xác định theo qui mô về số lao động và giá trị tài sản cố định, không kể đất đai. Theo đó :
Bảng1.2: Tiêu chí xác dịnh DNVVN ở Thái Lan
Lĩnh vực
Công ty Nhỏ
Công ty Vừa
Số lao động (người)
Giá trị TSCĐ
(triệu bath)
Số lao động (người)
Giá trị TSCĐ
(triệu bath)
Sản xuất
Không quá 50
Không quá 50
(1,25 triệu USD)
51 - 200
Từ 50 – 200
(1,25tr – 5tr USD)
Dịch vụ
Không quá 50
Không quá 50
(1,25 triệu USD)
51 – 200
Từ 50 – 200
(1,25tr – 5tr USD)
Bán buôn
Không quá 25
Không quá 50
(1,25 triệu USD)
26 – 50
Từ 50 – 100
(1,25tr – 2,5tr USD)
Bán lẻ
Không quá 15
Không quá 30
(0,75 triệu USD)
16 - 30
Từ 30 – 60
(0,75tr – 1,75tr USD)
Nguồn: Ngân hàng phát triển DNVVN – Thái Lan (SME Bank)
Ở Malaysia, công ty phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ (SMIDEC) - một cơ quan trực thuộc Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế đã đưa ra một định nghĩa về DNVVN, dần dần được chấp nhận một cách rộng rãi. Theo đó DNVVN được định nghĩa chung là một công ty, một xí nghiệp hay một doanh nghiệp có doanh thu hàng năm vào khoảng 25 triệu Ringit (tương đương 6,6 triệu USD) và không có quá 150 công nhân làm việc cả ngày.
* Ở Trung quốc, DNVVN không căn cứ vào số lao động mà dựa trên hoạt động hàng năm của doanh nghiệp hoặc tổng tài sản của doanh nghiệp đó. Một trong 2 chỉ tiêu này phải nhỏ hơn 500 triệu nhân dân tệ (6 triệu USD)
* Bên cạnh đó, DNVVN còn được phân chia dựa theo tiêu thức ngành nghề kinh doanh và số lượng lao động. Theo quan điểm này, ngoài tính đặc thù của ngành cần tính đến lượng lao động thu hút được. Đó là quan điểm của các nước thuộc khối EC, Hàn Quốc, Hồng Kông..
* Ở Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/ NĐ - CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ, tiêu chí xác định Doanh nghiệp vừa và nhỏ được quy định: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Bảng 1.3. Tiêu chí xác định DN VVN ở Việt Nam
Tiêu chí
Công nghiệp
Thương mại, dịch vụ
DNVVN
DN nhỏ
DNVVN
DN nhỏ
Vốn sản xuất (tỷ đồng)
<5
<1
<2
<1
Lao động (người)
<300
<50
<200
<30
Nguồn : Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.2. Đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay có trên 370000 Doanh nghiệp, chiếm tới trên 96% tổng số các Doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005 và có đóng góp hàng năm vào GDP là trên 30%, 31% tổng giá trị công nghiệp.
DNVVN có những điểm khác biệt so với các loại hình khác trong nền kinh tế
Về cơ bản, DNVVN có qui mô Vốn và số lượng lao động nhỏ, không đòi hỏi người lao động phải có trình độ quá cao, hoạt động sản xuất kinh doanh trong hầu khắp các lĩnh vực của nền kinh tế.
Các DNVVN thể hiện được mối quan hệ hợp tác lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, buôn bán, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, đôi bên cùng có lợi.
DNVVN là nơi thu hút được lao động với chi phí thấp, do không đòi hỏi quá cao về trình độ, góp phần giải quyết việc làm cho những lao động thất nghiệp tạm thời sau các mùa vụ.
DNVVN đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng miền, do số lượng đông đảo, có cơ sở ở nhiều nơi, tham gia vào hầu khắp các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, nhạy cảm cao với các hoạt động sản xuất kinh doanh.
DNVVN luôn gặp khó khăn trong vấn đề Vốn và Công nghệ. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài của DNVVN chưa được cao, gặp nhiều trở ngại, trình độ khoa học công nghệ trong DNVVN còn thấp.
Với những đặc điểm trên, DNVVN có các ưu, nhược điểm sau:
* Ưu điểm của các DN VVN
- Năng động, hoạt động sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực và luôn tỏ ra nhạy bén, thích ứng kịp thời với những diễn biến, thay đổi của thị trường, của nền kinh tế.
- Luôn thu hút được một lực lượng đông đảo lao động, giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp tạm thời sau các mùa vụ ở các địa phương.
- DNVVN có thể nhanh chóng tiến hành đổi mới thiết bị công nghệ để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác.
- Hệ thống, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, năng động nên tiết kiệm được chi phí quản lý của doanh nghiệp, góp phần làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- DNVVN hoạt động đa dạng trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Do đó, việc mở rộng tín dụng cho các DN VVN sẽ giúp bôi trơn hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
* Nhược điểm của các DN VVN
- Nguồn tài chính của DNVVN còn hạn chế nên vốn kinh doanh của doanh nghiệp còn hạn hẹp dẫn đến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong bước đầu hoạt động, trong việc sản xuất, làm cản trở sự mở rộng, phát triển của doanh nghiệp.
- Năng lực quản lý, điều hành của những người lãnh đạo còn chưa thật cao nên trình độ tổ chức, quản lý của doanh nghiệp còn có những bất cập và hạn chế nhất định.
- Cơ sở, vật chất kỹ thuật & trình độ công nghệ còn lạc hậu, trình độ lao động còn tương đối hạn chế.
- Tính kế hoạch, tính chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh thấp. Hoạt động kinh doanh chủ yếu theo mùa vụ và thương vụ, phát triển theo phong trào nên dễ dẫn đến thua lỗ, mất phương hướng.
- Sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ còn thấp. Hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chưa có nhiều tính độc đáo, mẫu mã, kiểu dáng chưa phong phú, sáng tạo, giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản phẩm nói chung thấp.
1.1.3. Vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN chiếm đông đảo trong hệ thống các doanh nghiệp hoạt động theo pháp luật. Và tại mỗi nền kinh tế, quốc gia hay vùng lãnh thổ, các DNVVN giữ vai trò ở những mức độ khác nhau nhưng tựu chung lại đều có những vai trò tương đồng sau :
· DNVVN giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế
Giúp ổn định nền kinh tế, ổn định các vấn đề vĩ mô như: thất nghiệp, lạm phát, đóng góp vào GDP, tăng trưởng kinh tế… DNVVN làm cho nền kinh tế năng động hơn, do có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động. DNVVN thường thực hiện chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh, góp phần tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng, tạo thêm nhiều hàng hóa, dịch vụ. Việc tiến hành sản xuất như vậy sẽ khiến cho sự liên kết hợp tác giữa các DNVVN với nhau, giữa DNVVN với các Doanh nghiệp khác sẽ được mở rộng, do đó có tác dụng bôi trơn hoạt động của nền kinh tế. Sự phát triển của DNVVN cũng sẽ đẩy nhanh được tốc độ phát triển của nền kinh tế.
· Góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo khu vực và thành phần kinh tế, để có thể tạo ra được một cơ cấu kinh tế có tính đổi mới hơn và thích ứng cao hơn. Do DNVVN hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau, khi trao đổi buôn bán sẽ tạo ra được sự chuyển dịch về vốn, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Giúp tăng tỷ trọng đóng góp của các ngành thương mại, dịch vụ, chuyển dịch nền kinh tế theo hướng công nghiệp phát triển. DNVVN đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, sản xuất ra được các sản phẩm mang đậm bản sắc dân tộc. DNVVN có thể kịp thời đáp ứng được các nhu cầu tiêu dùng, mua sắm ngày càng phong phú, đa dạng của người dân, của xã hội mà các doanh nghiệp có quy mô hoạt động lớn hơn không thể đáp ứng ngay lập tức được.
· Đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ. DNVVN có mặt ở nhiều địa phương, là nơi sẵn có các nguồn nguyên liệu như : nông sản, dược liệu, lợi thế về các ngành nghề thủ công truyền thống… đã tạo ra được số lượng hàng hóa lớn, đa dạng, nhiều chủng loại, không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu được. DNVVN vừa trực tiếp thu mua nguyên liệu, sản xuất, vừa liên kết với các doanh nghiệp khác, tạo nên vòng lưu thông hàng hóa khép kín, vừa có đầu vào sản xuất, vừa có đầu ra tiêu thụ.
· Phát triển gắn bó chặt chẽ với các Doanh nghiệp có quy mô hoạt động lớn, tạo mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ lẫn nhau.
Nền kinh tế của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới hiện nay, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển dần từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ. Những loại hàng hóa có chất lượng cao, mang tính sáng tạo, phong phú, đa dạng về kiểu dáng sẽ chiếm ưu thế trên thị trường. Trong điều kiện này, lợi thế về qui mô giữa các doanh nghiệp sẽ bị hạn chế một cách đáng kể. Theo đó, sự phát triển của hoạt động chuyên môn hoá và hợp tác hoá đã cho thấy việc áp dụng mô hình sản xuất kiểu vệ tinh là phù hợp với điều kiện và khả năng phát triển của mỗi nước. Trong nền kinh tế các DNVVN sẽ là vệ tinh của các doanh nghiệp lớn để có thể gắn bó chặt chẽ và thúc đẩy sự phát triển của từng loại hình doanh nghiệp này. Do vậy trong một nền kinh tế hiện đại, DNVVN không những không thể hòa tan trong các tập đoàn lớn mà khả năng phát triển, hoạt động hợp tác để mở rộng ngày càng tăng lên.
· DNVVN giúp khai thác tiềm năng phong phú về vốn trong dân cư để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Việc ngày càng xuất hiện nhiều DNVVN, với khả năng hoạt động tốt, lành mạnh đã tạo dần nếp suy nghĩ cho người dân nên đầu tư vào sản xuất kinh doanh thay vì trước đây tiền nhàn rỗi chỉ biết giữ, gửi tiết kiệm hoặc mua vàng cất trữ. DNVVN là trụ cột của kinh tế địa phương, do các doanh nghiệp lớn thường đặt tại các trung tâm kinh tế, còn DNVVN có mặt ở hầu hết các địa bàn, giúp giải quyết nhanh chóng việc làm cho lao động địa phương, yếu tố sản xuất tại cơ sở.
Khi nền kinh tế gặp khó khăn, khủng hoảng, DNVVN có vai trò kích cầu nền kinh tế 1 cách mạnh mẽ (vì các doanh nghiệp này thông thường ít bị ảnh hưởng mạnh khi nền kinh tế biến động), bằng những đóng góp vào GDP, chi tiêu cho sản xuất kinh doanh, kích thích tiêu dùng trong nước và xuất khẩu thông qua việc bán các sản phẩm của mình.
1.1.4. Vấn đề đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ
* Nhu cầu vốn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Vốn là một bài toán nan giải mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải đối mặt, giải quyết trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhu cầu về vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động trong việc hội nhập kinh tế toàn cầu đang là vấn đề cấp thiết cho các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu không có vốn để đầu tư mua máy móc, thiết bị mới, đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao hơn thì sẽ không thể giảm chi phí sản xuất, đa dạng hóa chủng loại, mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng và tăng sức cạnh tranh trên thị trường hiện nay. Thiếu vốn sản xuất, không thực hiện được mở rộng sản xuất, tìm kiếm các thị trường, nguồn vốn mới sẽ gây ảnh hưởng đến sự phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó các phương thức huy động vốn của DNVVN cần được đa dạng hoá và các DNVVN cần nhạy bén hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài để có thể khai thác được mọi nguồn lực trong nền kinh tế.
* Các nguồn cung cấp vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN ở nước ta chiếm 96% trong tổng số trên 370.000 doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005, đóng góp hàng năm trên 30% GDP, tạo ra khoảng 53% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và 30% lực lượng lao động trong cả nước. Mặc dù thể hiện được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế nhưng các DNVVN gặp rất nhiều khó khăn trong vay vốn sản xuất kinh doanh. Đây là vấn đề cần giải quyết nhanh chóng, bởi nguồn cung cấp vốn từ bên ngoài không thiếu. Các nguồn cung cấp vốn cho DNVVN bao gồm:
· Nguồn vốn tín dụng từ các Ngân hàng và các tổ chức tài chính khác
Các DNVVN hiện nay vẫn thực hiện huy động vốn từ tín dụng Ngân hàng là chủ yếu. Theo đó, ước tính có đến trên 82% lượng vốn cung ứng cho DNVVN là từ kênh Ngân hàng. Nhưng theo một điều tra mới đây của Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch - Đầu tư), chỉ có 34,48% DNNVV có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn của các Ngân hàng; 37,54% khó tiếp cận và 33,86% không tiếp cận được. Nguồn vốn này khó tiếp cận do các DNVVN không đáp ứng đầy đủ thủ tục cấp tín dụng của Ngân hàng và quy trình cho vay tại các Ngân hàng vẫn còn quá rườm rà.
· Nguồn vốn từ tín dụng thương mại
Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp chiếm dụng được từ các bên thứ 3 (trừ Ngân hàng), ví dụ như : trả chậm lương cho công nhân, mua chịu vật tư hàng hoá, nộp chậm lại thuế phải nộp… Phần vốn chiếm dụng này không bị mất phí, giúp Doanh nghiệp tiệt kiệm được thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng nếu chậm trễ trong việc trả nợ sẽ gây ra khó khăn cho doanh nghiệp.
· Nguồn vốn trên thị trường tự do
Nguồn vốn này do doanh nghiệp huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức, công ty có vốn nhàn rỗi khác, hay từ gia đình, bạn bè, các thành viên trong doanh nghiệp. Phương thức huy động này không đòi hỏi phải có thế chấp, thủ tục không phức tạp nhưng lãi suất thì thường cao, số lượng vốn vay thường hạn chế về mặt lượng. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ thị trường tự do thường tỏ ra phù hợp với những doanh nghiệp có nhu cầu vốn gấp.
· Nguồn vốn từ hỗ trợ của Chính Phủ và các tổ chức quốc tế
Nguồn vốn này được hình thành từ Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, Quỹ hỗ trợ phát triển DNVVN, 1 số Quỹ khác, và từ sự hỗ trợ rất đáng kể (lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài..) của các tổ chức quốc tế như IMF (quỹ tiền tệ thế giới), World Bank, ADB... Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng đều nhận được sự hỗ trợ đó mà chỉ có những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, hoạt động trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư, đáp ứng được những yêu cầu hỗ trợ.. mới tiếp cận được nguồn vốn này.
Có thể thấy, mặc dù Chính phủ luôn có sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ vốn, tạo môi trường bình đẳng để dễ tiếp nhận và cạnh tranh cho DNVVN nhưng vấn đề về vốn của các DNVVN hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa thể giải quyết nhanh chóng được.
1.2.> Hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1. Khái niệm cho vay
Theo mục 1 Điều 3 quyết định 1627/QĐ- NHNN về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng :
Cho vay là sự chuyển nhượng từ người cho vay sang người đi vay một lượng tài sản trong một thời gian nhất định và phải hoàn trả cả gốc và lãi vô điều kiện khi đến hạn.
Trong các nghiệp vụ chính của Ngân hàng thì cho vay là nghiệp vụ mang lại nhiều lợi nhuận, là nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Mặc dù vậy, khi tiến hàng cho vay, vấn đề rủi ro, khó đòi của các khoản vay là luôn tồn tại, đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện tốt quy tr