Phát triển sản xuất hàng hoá tiêu dùng nhằm phục vụ đời sống nhân dân và mở rộng sản xuất là một trong những chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trước đây, do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế cũ, sản xuất hàng hoá còn thấp kém, người dân chỉ mong “đủ ăn, đủ mặc”. Trong mấy năm gần đây, với dân số gần 80 triệu người, tăng trưởng kinh tế bình quân 8,2%, nhu cầu về hàng tiêu dùng ở nước ta đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Cùng với mức thu nhập ngày càng tăng, đòi hỏi của người dân cũng tăng lên, không chỉ dừng lại ở mức “đủ” mà cần “ăn ngon, mặc đẹp”. Trình độ dân trí cao, người ta muốn hưởng thụ sớm và nhiều hơn số tiền kiếm được. Tâm lý của người dân bây giờ không coi việc đi vay là thể hiện sự túng bấn mà là muốn sử dụng trước khi có khả năng thanh toán.
Cho vay tiêu dùng (CVTD) thực sự đem lại lợi ích cho cá nhân người tiêu dùng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. CVTD giúp cho họ thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, nâng cao chất lượng cuộc sống trong lúc họ chưa đủ điều kiện. Lượng tiêu dùng hàng hoá tăng lại kích thích sản xuất kinh doanh phát triển và cuối cùng, hoạt động CVTD đem lại lợi nhuận cho người cho vay.
Tuy nhiên, các NHTM tại TP.Hà Nội còn chậm trễ trong việc tiến hành CVTD, mới chỉ dừng lại ở một số ít đối tượng với món vay nhỏ lẻ. Trong khi thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế , văn hoá, thu nhập bình quân cao và nhu cầu về tiêu dùng, vay tiêu dùng rất lớn. Một thị trường lớn đang bị bỏ ngỏ, liệu các NHTM Việt Nam có kịp thời hành động nắm bắt khách hàng để mở rộng hoạt động kinh doanh cũng như cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác?
Qua quá trình nghiên cứu thực tế tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long thời gian qua, em nhận thấy vấn đề CVTD đã tới lúc thật sự cần sự quan tâm và một hướng đi phù hợp, vì vậy em đã chọn đề tài “Hướng mở rộng hoạt động CVTD tại các NHTM Việt Nam (Nghiên cứu tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long )” làm mục tiêu nghiên cứu.
Ngoài lời cảm ơn, lời nói đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương.
Chương I: Lý luận chung về CVTD
Chương II: Thực trạng hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
Chương III: Những ý kiến đề xuất nhằm mở rộng hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
.
76 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hướng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam (Nghiên cứu tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục lục
chương i
lý luận chung về cho vay tiêu dùng.
Tính tất yếu của sự hình thành cho vay tiêu dùng.
Sự hình thành và phát triển cho vay tiêu dùng.
Lý do hình thnahf cho vay tiêu dùng.
Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM.
Đối với người tiêu dùng.
Đối với nhà sản xuất.
Đối với NHTM.
Đối với nền kinh tế.
Lý luận chung về cho vay tiêu dùng.
Khái niệm cho vay tiêu dùng.
Đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng.
Quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng lại lớn.
Các khoản CVTD có lãi suất “cứng nhắc”.
Các khoản CVTD có rủi ro cao.
Chi phí thẩm định các khoản CVTD là khá lớn.
Lợi nhuận thu được là khá cao.
Phân loại cho vay tiêu dùng.
Căn cứ vào đối tượng vay.
Căn cứ vào mục đích vay.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả.
Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ.
căn cứ vào thời hạn vay.
Các phương thức và quy trình cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng tại các NHTM Việt Nam.
Các nguồn cho vay tiêu dùng.
Các tổ chức tài chính.
Các ngân hàng thương mại.
Hiệu cầm đồ.
Công ty bảo hiểm.
Ngân hàng tiết kiệm bưu điện.
Hợp tác xã.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Các tổ chức khác.
Giới thiệu về CVTD tại các NHTM Việt Nam.
Các nhân tố ảnh hưởng tới cho vay tiêu dùng của ngân hàng.
Nhân tố vĩ mô.
Nhân tố vi mô.
Nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan.
chương ii
thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNO&PTNT CHI NHáNH THăNG LONG
2.1 Giới thiệu về NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
2.1.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức.
2.1.3 Các hoạt động của ngân hàng .
2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long.
2.2.1 Tình hình huy động vốn.
2.2.2 Tình hình sử dụng vốn.
2.2.3 Tình hình nợ quá hạn.
2.2.4 Kết quả tài chính.
2.3 Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
2.3.1 Các quy chế pháp lý về cho vay tiêu dùng đang áp dụng tại ngân hàng.
2.3.2 Các loại hình cho vay tiêu dùng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long.
2.3.3 Tình hình chung về quy mô, cơ cấu của hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long.
2.4 Đánh giá hiệu quả hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long.
2.4.1 Doanh thu.
2.4.2 Lãi suất.
2.4.3 Rủi ro trong hoạt động CVTD.
2.4.4 Những thuận lợi của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long khi tiến hành CVTD
2.4.4.1 Xét dưới góc độ chủ quan
2.4.4.2 Xét dưới góc độ chủ quan.
2.4.5 Những hạn chế trong CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
2.4.5.1 Xét dưới góc độ khách quan.
2.4.5.2 Xét dưới góc độ chủ quan.
chương iii
những ý kiến đề xuất nhằm mở rộng hoạt động CVTD tại NHNO&PTNT CHI NHáNH THăNG LONG
3.1 Định hướng phát triển hoạt động CVTD của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long trong thời gian tới.
3.1.1 Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT trong thời gian tới.
3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và CVTD nói riêng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long.
3.2 Những ý kiến đề xuất mở rộng hoạt động CVTD.
3.2.1 Hoàn thiện đối với cho vay không có tài sản bảo đảm
3.2.2 Hoàn thiện đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
3.2.3 Mở rộng hình thức CVTD có thế chấp bằng tài sản hình thành từ tiền vay.
3.2.4 Thực hiện CVTD thông qua các tổ chức trung gian.
3.2.5 CVTD thông qua người bán hàng.
3.2.6 Phát triển các sản phẩm khác.
kết luận
Lời nói đầu
Phát triển sản xuất hàng hoá tiêu dùng nhằm phục vụ đời sống nhân dân và mở rộng sản xuất là một trong những chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trước đây, do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế cũ, sản xuất hàng hoá còn thấp kém, người dân chỉ mong “đủ ăn, đủ mặc”. Trong mấy năm gần đây, với dân số gần 80 triệu người, tăng trưởng kinh tế bình quân 8,2%, nhu cầu về hàng tiêu dùng ở nước ta đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Cùng với mức thu nhập ngày càng tăng, đòi hỏi của người dân cũng tăng lên, không chỉ dừng lại ở mức “đủ” mà cần “ăn ngon, mặc đẹp”. Trình độ dân trí cao, người ta muốn hưởng thụ sớm và nhiều hơn số tiền kiếm được. Tâm lý của người dân bây giờ không coi việc đi vay là thể hiện sự túng bấn mà là muốn sử dụng trước khi có khả năng thanh toán.
Cho vay tiêu dùng (CVTD) thực sự đem lại lợi ích cho cá nhân người tiêu dùng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. CVTD giúp cho họ thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, nâng cao chất lượng cuộc sống trong lúc họ chưa đủ điều kiện. Lượng tiêu dùng hàng hoá tăng lại kích thích sản xuất kinh doanh phát triển và cuối cùng, hoạt động CVTD đem lại lợi nhuận cho người cho vay.
Tuy nhiên, các NHTM tại TP.Hà Nội còn chậm trễ trong việc tiến hành CVTD, mới chỉ dừng lại ở một số ít đối tượng với món vay nhỏ lẻ. Trong khi thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế , văn hoá, thu nhập bình quân cao và nhu cầu về tiêu dùng, vay tiêu dùng rất lớn. Một thị trường lớn đang bị bỏ ngỏ, liệu các NHTM Việt Nam có kịp thời hành động nắm bắt khách hàng để mở rộng hoạt động kinh doanh cũng như cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác?
Qua quá trình nghiên cứu thực tế tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long thời gian qua, em nhận thấy vấn đề CVTD đã tới lúc thật sự cần sự quan tâm và một hướng đi phù hợp, vì vậy em đã chọn đề tài “Hướng mở rộng hoạt động CVTD tại các NHTM Việt Nam (Nghiên cứu tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long )” làm mục tiêu nghiên cứu.
Ngoài lời cảm ơn, lời nói đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương.
Chương I: Lý luận chung về CVTD
Chương II: Thực trạng hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
Chương III: Những ý kiến đề xuất nhằm mở rộng hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
.
chương i
lý luận chung về cho vay tiêu dùng.
Tính tất yếu của sự hình thành cho vay tiêu dùng.
Sự hình thành và phát triển cho vay tiêu dùng.
Vào những năm 1980 của thế kỷ 20, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) ở Mỹ phải tiến hành cải cách với lý do sự cạnh tranh gay gắt ảnh hưởng đến thực hiện nghiệp vụ của các NHTM. Trong thực tế, sức mạnh cạnh tranh đã và đang tạo ra những thay đổi trong lĩnh vực công nghệ, dân số học, luật pháp và chính nó sẽ góp phần vào sự thay đổi về dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, đồng thời làm giảm vai trò của các NHTM trong hệ thống tài chính, từ đó dẫn đến sự thay đổi cơ cấu của các NHTM. Môi trường cạnh tranh ngày càng thay đổi một cách nhanh chóng, các ngân hàng không còn khả năng duy trì như là tham gia cạnh tranh trong hệ thống tài chính. Cuộc khủng hoảng 1929-1933 đã từng bước xoá đi khả năng đứng vững của các ngân hàng và cuối cùng đưa tới một hệ thống ngân hàng yếu đuối và không đủ sức cạnh tranh.
Công cụ để các NHTM cạnh tranh với các đối thủ khác không chỉ từ các quỹ tiết kiệm dài hạn (quỹ tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm công cộng và các liên hiệp tín dụng) mà còn từ các công ty tài chính tiêu dùng và công ty thương mại. Cuộc cạnh tranh xảy ra xuất phát từ những nhà môi giới và những nhà môi giới này đã hình thành ra “thị trường tiền tệ bán lẻ”. Cuộc cạnh tranh này xuất hiện sau những năm của thập niên 1970, nhưng phải chờ dến những năm đầu của thập niên 1980, trước đòi hỏi của các NHTM về “một lĩnh vực tham gia ở mức độ cao hơn”, Quốc hội Mỹ đã cho phép các NHTM cung ứng “tài khoản thị trường tiền tệ” và dịch vụ môi giới.
Cũng trong giai đoạn này, sự tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều phương tiện liên kết giúp các NHTM có thể đặt quan hệ với mọi khách hàng trên thế giới. Sự xuất hiện của máy tính nối mạng Internet, kế đó là sự ra đời của máy rút tiền tự động (Automated Teller Machine - ATMs) đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh không chỉ giữa các ngân hàng với nhau mà còn giữa ngân hàng với các tổ chức tài khác.
Các NHTM đã thực sự lột xác. Sau cuộc khủng hoảng 1930 kinh hoàng nhất trong lịch sử, hệ thống NHTM đã hết sức nỗ lực trong việc tìm kiếm con đường giành lại vị trí độc tôn trong hệ thống tài chính của mình. Các NHTM đã mở rộng hoạt động CVTD và đưa vào thị trường thế chấp bất động sản. Không có con đường nào là hoàn toàn bằng phẳng. Thời gian đầu, hầu hết các NHTM đã ngần ngại cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản CVTD nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao, do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ nay, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn.
Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Sau đó, nhiều ngân hàng lớn đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Đến năm 1987, các NHTM ở Mỹ đã cung cấp 80% khối lượng tín dụng tiêu dùng, trong đó 45% chủ yếu dựa trên trả góp.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tiêu dùng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Các ngân hàng đã liên tục phát triển và trở thành những tổ chức cấp tiêu dùng chính trong lĩnh vực CVTD. Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho ngân hàng có được vị trí thống trị trên lĩnh vực CVTD là ngân hàng đã không ngừng khai thác nguồn tiền gửi của dân cư và coi đây là nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất. Rất nhiều hộ gia đình sẽ không muốn gửi tiền của mình vào một ngân hàng nếu họ không thấy được rằng mình sẽ có triển vọng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó khi có nhu cầu.
Ngày nay, ngành kinh doanh tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh theo xu thế chung của nền kinh tế trên toàn thế giới. Nhiều công ty chuyên môn hoá đã tìm kiếm nhiều dạng dịch vụ khác nhau, và hiện nay đang mở rộng dần. Phù hợp với việc cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ, các tổ chức như công ty bảo hiểm, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, công ty chứng khoán...Ngày nay đã tham gia vào thị trường tài chính để cung cấp cho người tiêu dùng mà trước đây lĩnh vực này do công ty tài chính và ngân hàng thực hiện.
Trong thời gian tới, chương trình tín dụng tiêu dùng sẽ tiếp tục đóng một vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng cũng như trong quản lý ngân hàng. Xu hướng này diễn ra bởi vì tín dụng tiêu dùng không chỉ là một trong những khoản mục mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng mà còn bởi vì người tiêu dùng với trình độ ngày càng cao sẽ vay nhiều hơn để nâng cao mức sống bản thân trên cơ sở triển vọng về thu nhập trong tương lai.
Lý do hình thành cho vay tiêu dùng.
Quan sát hoạt động mua bán thông thường, người ta thấy trên thực tế có hiện tượng phát sinh, người tiêu dùng có mong muốn sử dụng hàng hoá trước khi có khả năng thanh toán. Đó là nhu cầu tất yếu phát sinh trong cuộc sống hàng ngày của con người. Theo quan điểm marketing, “nhu cầu” được chia làm 3 cấp độ, đó là nhu cầu tự nhiên, mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán.
Nhu cầu tự nhiên là vốn có, là một mặt bản thể của con người, gắn liền với chính sự tồn tại của bản thân con người như: cơm ăn, áo mặc, nhà ở...
Còn mong muốn là nhu cầu tự nhiên nhưng mang tính đặc thù của từng cá nhân do sự khác biệt về bản tính, thói quen, công việc hay thu nhập...Ta thấy nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người là vô hạn. Tính hữu hạn nằm ở khái niệm thứ ba “ nhu cầu có khả năng thanh toán”, quyết định bởi sự giới hạn của khả năng thanh toán.
Nếu ta lập một bảng thống kê những nhu cầu của một đời người thì đó là một con số vô hạn. Bởi lẽ nhu cầu con người là một hàm số đồng biến theo thời gian. Không chỉ dừng lại ở “ đủ ăn, đủ mặc” mà tiến tới là “ăn ngon, mặc đẹp”, nhu cầu được học hành, được tôn trọng... Nhưng xét tại một thời điểm, lợi ích thu được từ món đồ sử dụng là hoàn toàn khác nhau. Nếu ta có một chiếc xe máy lúc còn trẻ, ta có thể bớt được sức lực và thời gian, đi làm được nhiều việc. Nhưng nếu cũng chiếc xe máy lúc có tuổi, khi đó về sức khoẻ ta khó đảm bảo được sự an toàn của bản thân lúc vận hành, lại không cần thiết phải đi đây đó nhiều. Nhưng lúc tẻ ta chưa có khả năng thanh toán, phải dành dụm thì sau này mới có thể mua được. Vậy tại sao ta lại không hưởng thụ ngay từ bây giờ những thứ ta chắc chắn kiếm được trong tương lai? Cũng một ví dụ tương tự về việc học hành. Bây giờ ta cần tiền để đầu tư đi học, khi ra trường ta có thể dễ dàng tìm việc và kiếm tiền. Nhưng hiện tại ta lại không có tiền thì ước mơ đi học, có việc làm tốt cũng bay xa. Vậy tại sao ta lại không thể sử dụng số tiền ta sẽ kiếm được lúc có việc làm sau này để đi học?
Đó thực sự là một ván đề quan trọng. Làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán này?
Trên thực tế đã diễn ra hai cách giải quyết. Cách thứ nhất là mua bán chịu. Nhưng cách này chỉ có lợi đối với người mua và bất lợi đối với người bán và người bán thu hồi vốn chậm, lại gặp rủi ro đạo đức nếu người mua quỵt. Thế là khi cần tiền để nhập hàng (đối với người bán hàng) hoặc mở rộng sản xuất (đối với nhà sản xuất kinh doanh) thì đến lượt người bán dễ rơi vào tình trạng thiếu phương tiện thanh toán. Cách mua bán chịu hoàn toàn không khả thi, chỉ xảy ra trong trường hợp mua bán những đồ giá trị thấp, người mua có uy tín, quen biết. Thế còn cách thứ hai. Cách thứ hai là người mua vay được tiền. Họ sẽ cảm giác là đã đủ phương tiện thanh toán. Cách này vừa thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và nhà sản xuất cũng bán được hàng.
Bây giờ đứng trên cương vị người bán hàng để xem xét. Ta thấy có hai trường hợp, người bán hàng là đại lý trung gian chuyên về lưu thông hàng hoá, hoặc người bán hàng trực tiếp là nhà sản xuất kinh doanh. Người bán hàng thì luôn luôn muốn tiêu thụ được hàng hoá. Nếu người mua không có phương thức thanh toán thì người bán có thể bán chịu hàng. Về phía người bán trước hết sẽ được lời mời của người bán cho họ bán chịu hàng. Tiếp đó người bán cho người đó lại được lời mời tương tự từ người bán khác. Và cuối cùng là người bán hàng cho những người kia được lời mời từ nhà sản xuất (lý do là người bán hàng muốn tiêu thụ được hàng hoá một cách nhanh chóng trong lúc người mua lại thiếu phương tiện thanh toán). Nhưng nhà sản xuất thì không thể cho vay nhiều tiền, thời hạn lớn được. Bán chịu nhiều hàng, vốn của họ cũng bị ứ đọng.Vậy là kết thúc quá trình tín dụng thương mại tại đây.
Như Vậy là cần đến một tổ chức thứ ba: hỗ trợ cho cả người mua và người bán để họ luôn luôn có phương tiện thanh toán đối với các nhu cầu của họ. Không tổ chức nào đảm nhiệm được vị trí này tốt bằng các tổ chức trung gian tài chính, mà quan trọng nhất là các NHTM. Thực hiện hoạt động CVTD là ngân hàng đã mở rộng hoạt động kinh doanh, thu được lợi nhuận- mục tiêu quan trọng nhất của mọi tổ chức kinh tế.
Cuối cùng, CVTD là một hoạt động tất yếu hình thành do yêu cầu của nền kinh tế, nhằm giải quyết ba vấn đề: người tiêu dùng có nhu cầu vượt quá khả năng thanh toán, người bán thì mong muốn tiêu thụ được hàng hoá( chấp nhận rủi ro có thể xảy ra) và những người có tiền muốn tìm kiếm thu nhập từ những hoạt động này.
Đó là ba lí do chính hình thành nên nghiệp vụ cho vay tiêu dùng.
1.1.3 Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM.
Một nhà kinh tế học lớn đã cho rằng: Ba phát minh vĩ đại nhất của loài người là lửa, bánh xe và ngân hàng trung ương. Như Vậy, chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng, huyết quản của nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng tác động đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các ngành nghề, tác động đến các biến số vĩ mô kinh tế khác. Sẽ không có một nền kinh tế vững mạnh nếu không có một hệ thống tài chính phát triển ( Ví dụ ở các nước giàu mạnh nhất thế giới như Mỹ, Nhật, EU… đều có hệ thống tài chính rất phát triển). Bất cứ hoạt động nào của ngân hàng, dù là nhỏ cũng sẽ tác động tới nền kinh tế. Hoạt động CVTD của NHTM cũng đóng một vai trò đáng kể trong đời sống xã hội và nền kinh tế.
Đối với người tiêu dùng.
Nhìn chung, có một số nhu cầu tự nhiên được xem là mục tiêu phấn đấu của cả đời người , là nhu cầu mà bất kì một người bình thường nào cũng cố gắng biến nó trở thành nhu cầu có khả năng thanh toán. Như nhu cầu về tổ chức hôn lễ, mua nhà, tiện nghi sinh hoạt, các phương tiện đi lại. Ngoài ra, là các nhu cầu mà con người thoả mãn càng sớm càng tốt. Chẳng hạn, nhu cầu về học hành của họ hay con cái họ, các nhu cầu phát sinh khi chuẩn bị một công việc làm ăn mới…
Trong một đời người của cải được tích luỹ dần theo thời gian. Tuỳ điều kiện của mỗi người, nhưng thông thường việc mua sắm đầy đủ các tiện nghi trong gia đình thường mất khoảng thời gian dài. Khi đó lợi ích cảm nhận từ việc hưởng thụ đều có xu hướng giảm dần. Cho nên, người tiêu dùng luôn tìm cách phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn các nhu cầu với yếu tố thời gian và khả năng thanh toán hiện tại, tương lai( tìm cách hưởng thụ trước số tiền sẽ có được trong tương lai). Nếu phân tích theo khía cạnh tài chính, việc mượn tiền trước của ngân hàng để tiêu dùng khiến chúng ta phải trả lãi thực chất cũng chỉ là cách quy đổi luồng tiền mà ta sẽ có tại một thời điểm nào đó trong tương lai về thời điểm hiện tại.
Chính vì những nguyên nhân trên, việc ngân hàng thực hiện và mở rộng hoạt động CVTD sẽ đem đến cho người tiêu dùng những lợi ích tốt nhất. Ta có thể khẳng định rằng người tiêu dùng là những người được hưởng trực tiếp và nhiều nhất những lợi ích mà hình thức CVTD mang lại.
Đối với nhà sản xuất.
Các nhà sản xuất có thể dễ dàng tìm thấy nhu cầu có khả năng thanh toán về các mặt hàng tiêu dùng khi các khách hàng đã tìm được nguồn tài trợ. Lợi ích đối với các nhà sản xuất kinh doanh là gia tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, từ đó đem lại lợi nhuận, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Khi đó, nhà sản xuất thuê thêm công nhân, tăng thu nhập cho người lao động; Vậy là CVTD lại gián tiếp đem lại lợi ích cho xã hội. Nhưng đồng thời, cho vay tiêu dùng tạo ra sự cạnh tranh cao hơn giữa các hãng sản xuất, các nhà kinh doanh cả về chất lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm. Một mặt, thúc đẩy sản xuất phát triển, một mặt người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn, qua đó tạo sự năng động cho nền kinh tế.
Đối với NHTM.
Hoạt động chủ yếu của các ngân hàng là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó để cho vay kiếm lời. Các NHTM song song với nỗ lực huy động vốn là khai thác tối đa thị trường tín dụng, nghĩa là đáp ứng tốt nhất các nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Hoạt động CVTD của ngân hàng đối với các cá nhân có quy mô nhỏ nhưng số lượng khách hàng tiềm năng và sự đa dạng của nhu cầu lại vô cung to lớn. Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng là vô tận, đó là nền tảng vững chắc của ngân hàng khi tiến hành CVTD.
Khi tiến hành CVTD, các NHTM đều thấy rằng rủi ro trong hoạt động cho vay thường nhỏ hơn so với các nghiệp vụ khác. Lãi suất thực ngân hàng áp dụng trong loại hình CVTD rất cao, điều này khiến cho hoạt động CVTD có tỉ suất lợi nhuận không nhỏ.
Hơn nữa, xu hướng hoạt động của các NHTM là phát triển đa năng tổng hợp luôn tìm cách mở rộng các nghiệp vụ cũng như đưa ra các sản phẩm mới. Việc thực hiện và phát triển CVTD vừa mở rộng được khách hàng cho vay, tận dụng được nguồn vốn huy động một cách hiệu quả, vừa đa dạng hoá các sản phẩm , dịch vụ ngân hàng. Từ đó ngân hàng tăng được sức mạnh trong cạnh tranh đồng thời tạo ra được những nét đặc trưng hấp dẫn riêng.
Đối với nền kinh tế.
Một trong các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của xã hội là mức sống của người dân. Vậy rõ ràng CVTD có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Bởi CVTD giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống khi chưa có khả năng thanh toán. Thị trường CVTD đã tạo nên sự sôi động của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn vốn cho khu vực sản xuất trong nước, tạo sức hút đầu tư nước ngoài. Với CVTD mà các NHTM cung cấp chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực sản xuất, cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp, thị trường hàng hoá nội địa phát triển.
Bên cạnh các lợi ích về kinh tế, CVTD còn giúp nhà nước đạt được các mục tiêu xã hội như xoá đói giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm tệ nạn xã hội …
Tóm lại, hoạt động CVTD là một tất yếu, phù hợp với sự phát triển của xã hội và tuân theo quy luật kinh tế. Dù cho là bên nào: người tiêu dùng, người cung cấp, NHTM hay tổng quan nền kinh tế nói chung đều được hưởng lợi ích từ hoạt động này. Vì nó thực sự là mộ