Trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt năm 2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập vào WTO, điều đó cũng có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước một vận hội rất lớn song cũng phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta lúc này là phải nắm bắt cơ hội, tích cực tham gia vào nền kinh tế thế giới.
Trước tình hình đó, để tồn tại và phát triển đòi hỏi ngân hàng không ngừng đổi mới theo chiều hướng hoàn thiện các nghiệp vụ sẵn có, tiếp cận và ứng dụng các dịch vụ mới. Bảo lãnh ngân hàng là một trong những nghiệp vụ đã được ứng dụng và phát triển trong những năm gần đây, nó đã góp phần đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, thoả mãn các nhu cầu của khách hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại thúc đẩy quá trình sản xuất của nền kinh tế. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập, môi trường kinh tế chưa thực sự ổn định, môi trường pháp lý đang dần hoàn thiện thì hoạt động bảo lãnh của ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy việc phân tích một cách chính xác, khoa học nghiệp vụ này từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện một dịch vụ mới mẻ trở thành một dịch vụ quan trọng đáp ứng đủ nhu cầu của ngân hàng cũng như của nền kinh tế.
Xuất phát từ nhận thức trên, qua một thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn số 2 Láng Hạ, cùng với việc nghiên cứu giữa lý luận và thực tế, đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” đã được chọn để hình thành chuyên đề tốt nghiệp.
Mục đích của đề tài nghiên cứu này là thông qua hệ thống lý luận cơ bản về hoạt động bảo lãnh ngân hàng, tìm hiểu và phân tích hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Láng Hạ, nêu bật được thành công cũng như các tồn tại và các nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ.
Ngoài lời nói đầu và kết luận thì chuyên đề được chia thành ba chương như sau:
Chương I: Tổng quan về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ.
Chương III: Giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ.
70 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1189 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt năm 2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập vào WTO, điều đó cũng có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước một vận hội rất lớn song cũng phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta lúc này là phải nắm bắt cơ hội, tích cực tham gia vào nền kinh tế thế giới.
Trước tình hình đó, để tồn tại và phát triển đòi hỏi ngân hàng không ngừng đổi mới theo chiều hướng hoàn thiện các nghiệp vụ sẵn có, tiếp cận và ứng dụng các dịch vụ mới. Bảo lãnh ngân hàng là một trong những nghiệp vụ đã được ứng dụng và phát triển trong những năm gần đây, nó đã góp phần đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, thoả mãn các nhu cầu của khách hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại thúc đẩy quá trình sản xuất của nền kinh tế. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập, môi trường kinh tế chưa thực sự ổn định, môi trường pháp lý đang dần hoàn thiện thì hoạt động bảo lãnh của ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy việc phân tích một cách chính xác, khoa học nghiệp vụ này từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện một dịch vụ mới mẻ trở thành một dịch vụ quan trọng đáp ứng đủ nhu cầu của ngân hàng cũng như của nền kinh tế.
Xuất phát từ nhận thức trên, qua một thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn số 2 Láng Hạ, cùng với việc nghiên cứu giữa lý luận và thực tế, đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” đã được chọn để hình thành chuyên đề tốt nghiệp.
Mục đích của đề tài nghiên cứu này là thông qua hệ thống lý luận cơ bản về hoạt động bảo lãnh ngân hàng, tìm hiểu và phân tích hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Láng Hạ, nêu bật được thành công cũng như các tồn tại và các nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ.
Ngoài lời nói đầu và kết luận thì chuyên đề được chia thành ba chương như sau:
Chương I: Tổng quan về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ.
Chương III: Giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng đa dạng và phức tạp, không chỉ đơn thuần là các sản phẩm hàng hoá thông thường mà bao hàm cả các sản phẩm dịch vụ. Mối quan hệ kinh tế - xã hội không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà có thể vượt ra ngoài lãnh thổ trong nước khi các nước chủ trương thực hiện đường lối kinh tế mở cửa và hội nhập với khu vực và thế giới.
Trước tình hình đó, một doanh nghiệp khi tham gia hợp đồng kinh tế rất có thể gặp phải những rủi ro do không hiểu đúng về phẩm chất đạo đức cũng như tình hình tài chính của đối tác, không nắm bắt được các thông tin cần thiết có liên quan đến những biến động về kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội đều có những tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh.
Để tránh được những rủi ro nêu trên, doanh nghiệp cần phải tốn nhiều thời gian cũng như chi phí để tìm hiểu về bạn hàng, môi trường kinh doanh của bạn hàng - đây lại không thuộc “sở trường” của doanh nghiệp vì vậy việc nghiên cứu nhiều khi vượt ra ngoài khả năng của doanh nghiệp hoặc kết quả thu được sai lệch, không chính xác. Điều này dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng: hoặc là gặp rủi ro trong kinh doanh hoặc doanh nghiệp sẽ bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Trong những trường hợp này, vấn đề đặt ra là cần có một sự đảm bảo cho các giao dịch diễn ra theo đúng hợp đồng đã kí kết, củng cố niềm tin cho các bên tham gia. Như vậy xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế mà trong một hợp đồng đã kí kết, ngoài hai chủ thể không thể thiếu sẽ có sự xuất hiện của bên thứ ba là các tổ chức tín dụng, tài chính ngân hàng, đó chính là hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Khái niệm bảo lãnh ngân hàng: “Bảo lãnh ngân hàng là một trong các nghiệp vụ của ngân hàng, là cam kết của ngân hàng bảo lãnh đối với bên có quyền( bên thụ hưởng bảo lãnh) về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên có nghĩa vụ( bên đươc bảo lãnh) nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên thụ hưởng bảo lãnh. Các cam kết của ngân hàng quy định cụ thể tại văn bản bảo lãnh- thư bảo lãnh- do ngân hàng bảo lãnh phát hành”.
1.1.1 Đặc trưng cơ bản của bảo lãnh ngân hàng
Một đặc trưng rất quan trọng của bảo lãnh ngân hàng là tính độc lập. Nó thể hiện trong mối quan hệ trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia bảo lãnh.
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh thông thường có ba hợp đồng độc lập:
- Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh, gọi là hợp đồng cơ sở. Đây có thể là hợp đồng mua bán, hợp đồng xây dựng, hợp đồng cho vay… và là cơ sở để hình thành nên hai hợp đồng còn lại.
- Hợp đồng giữa người yêu cầu bảo lãnh và ngân hàng phát hành, cụ thể là đơn xin bảo lãnh đã được duyệt.
- Thư bảo lãnh là hợp đồng giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng.
Các hợp đồng được hình thành trong mối quan hệ được chi phối bởi mục đích và đối tượng nên hai bên trong từng hợp đồng có quyền và nghĩa vụ riêng. Hợp đồng thứ nhất là gốc để hình thành hợp đồng thứ hai và thứ ba. Nghĩa là xuất phát từ hợp đồng cơ sở, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng thì ngân hàng sẽ phát hành bảo lãnh theo yêu cầu của người được bảo lãnh. Nhưng ngân hàng, người cung cấp dịch vụ và cam kết thanh toán có hai mối quan hệ với hai đối tượng khác nhau và phải hành động mang tính độc lập trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của từng hợp đồng.
Như vậy bảo lãnh ngân hàng mang tính chất độc lập và tách biệt trong quan hệ hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng. Mặc dù nội dung thư bảo lãnh được xây dựng trên nền tảng của hợp đồng cơ sở nhưng về mặt pháp lý, thư bảo lãnh tách rời khỏi cơ sở hình thành nó.
Tính độc lập của bảo lãnh ngân hàng thể hiện rõ nhất ở trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành. Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành và người được bảo lãnh. Khi các điều kiện bảo lãnh của ngân hàng được tuân thủ thì ngân hàng không thể viện dẫn bất cứ lý do khách quan hay chủ quan nào để từ chối hay trì hoãn việc thanh toán. Trách nhiệm này đòi hỏi ngân hàng phải thực sự cân nhắc và thận trọng trước khi ra quyết định cung cấp bảo lãnh cho một khách hàng nào đó.
Nhưng vấn đề mà người được bảo lãnh gặp phải và những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cơ sở không ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh. Ngân hàng bảo lãnh phải chuyền tiền từ tài khoản của người được bảo lãnh trên cơ sở đòi tiền hợp lệ của người thụ hưởng hoặc quyền được đòi hoàn trả từ người được bảo lãnh nếu ngân hàng trả tiền từ tài khoản của ngân hàng. Nghĩa vụ của người được bảo lãnh cũng được xác định rất rõ: uỷ quyền đầy đủ cho ngân hàng bảo lãnh trích tài khoản của mình thanh toán cho người thụ hưởng, hoặc hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã thanh toán trước theo bảo lãnh. Cho dù người được bảo lãnh phá sản hoặc mất khả năng chi trả thì ngân hàng vẫn phải thanh toán cho người thụ hưởng theo đúng điều khoản của bảo lãnh. Ngay cả khi có tranh chấp của hai bên, ngân hàng vẫn không có quyền ngưng thanh toán. Người được bảo lãnh do đó sẽ hoàn tiền theo nguyên tắc” thanh toán trước, khiếu kiện sau”. Người được bảo lãnh có quyền khiếu nại nếu bị đối xử không công bằng và bị lạm dụng. Toà sẽ xem xét và quyết định, lúc này người yêu cầu được bảo lãnh mới có cơ hội được bù đắp tổn thất do sự lạm dụng của người thụ hưởng.
Nghĩa vụ của ngân hàng là phải thanh toán cho người thụ hưởng khi nhận được yêu cầu đòi tiền kèm các chứng từ theo đúng các điều khoản của bảo lãnh. Chính vì vậy, tính độc lập của bảo lãnh phụ thuộc vào các điều kiện của bảo lãnh. Ví dụ, nếu bảo lãnh quy định việc thanh toán là theo văn bản yêu cầu của người thụ hưởng thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán mà không cần một điều kiện nào ngoài văn bản yêu cầu. Ngân hàng phát hành bảo lãnh phải thanh toán và người được bảo lãnh phải bồi hoàn cho ngân hàng. Khi đó tính độc lập gần như tuyệt đối.
Ngược lại nếu bảo lãnh quy định xuất trình chứng từ của phía thứ ba như chứng thực của cơ quan độc lập, về sự vi phạm của đối tác, quyết định của trọng tài thậm chí phán quyết của tòa án hay văn bản của người được bảo lãnh thì tính độc lập của giao dịch bảo lãnh cũng sẽ bị giảm sút. Tính độc lập đem lại nhiều ưu đãi thuận lợi cho người nhận bảo lãnh nên nó được sử dụng nhiều trong thực tế.
1.1.2 Vai trò của hoạt động bảo lãnh
Hiện nay bảo lãnh đã phát triển rộng rãi trên hầu hết các lĩnh vực. Có thể khẳng định rằng những thương vụ có giá trị lớn về mặt tài chính và phức tạp về mặt kỹ thuật, đặc biệt là có đối tác nước ngoài tham gia thì không thể không có một hình thức bảo lãnh nào đó đi kèm. Bảo lãnh không chỉ hỗ trợ cho các hợp đồng thương mại mà cả các giao dịch phi thương mại, tài chính cũng như phi tài chính. Bảo lãnh không chỉ là một hoạt động tạo sự phát triển của ngân hàng mà còn có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp nói riêng và với tất cả nền kinh tế nói chung. Sau đây là vai trò của bảo lãnh đối với ngân hàng, đối với nền kinh tế, đối với doanh nghiệp.
1.1.2.1 Đối với ngân hàng
Trước hết đối với ngân hàng, bảo lãnh là một trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Đồng thời bảo lãnh đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng thông qua phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng một khoản không nhỏ, nó chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng phí dịch vụ của các ngân hàng hiện nay. Một ưu điểm của bảo lãnh ngân hàng là không phải chi phí huy động như cho vay, không mất chi phí cơ hội cho mục đích kinh doanh khác, và khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng thì chắc chắn thu được phí bảo lãnh. Ngoài ra, khách hàng muốn được ngân hàng bảo lãnh cho mình cần phải kí quỹ bảo lãnh, ngân hàng sẽ giữ số tiền này trong suốt thời gian bảo lãnh. Đối với ngân hàng thì đây là nguồn vốn không phải trả lãi và tương đối ổn định.
Và bên cạnh đó thì nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng còn góp phần không nhỏ trong việc mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng. Sự ra đời của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã hoàn thiện khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh cũng như gia tăng nguồn vốn thông qua việc mở rộng các quan hệ thanh toán, các tài khoản giao dịch. Nghiệp vụ bảo lãnh hỗ trợ các hình thức thanh toán của ngân hàng như thanh toán quốc tế (bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh L/C trả chậm…). Bảo lãnh cũng làm nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng trên thị trường đặc biệt là thị trường quốc tế. Thông qua bảo lãnh ngân hàng tạo được thế mạnh, uy tín giúp tăng khách hàng và lợi nhuận.
1.1.2.2 Đối với doanh nghiệp
Đó là vai trò của bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh và bên hưởng bảo lãnh mà ta đã trình bày trong sự ra đời của bảo lãnh. Bên cạnh đó, với chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng thì bảo lãnh thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc hơn, có trách nhiệm hơn và thực hiện hợp đồng đúng quy định hơn. Mặt khác đối với các doanh nghiệp khi được ngân hàng bảo lãnh thì phải chịu phí bảo lãnh, đó là một khoản chi phí của doanh nghiệp do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn một cách tối đa từ đó sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.2.3 Đối với nền kinh tế
Sự tồn tại của bảo lãnh ngân hàng là một khách quan đối với nền kinh tế, đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nó tồn tại được như vậy là do vai trò to lớn của nó với nền kinh tế. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, hỗ trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các khu vực trọng điểm phát triển và ngành kinh tế kém phát triển. Thông qua các chính sách ngân hàng như mở rộng bảo lãnh cho vay vốn nước ngoài, hạn mức bảo lãnh, … có thể tăng năng lực sản xuất, khuyến khích các ngành này phát triển, gia tăng đầu tư vào các lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế.
Ngoài ra bảo lãnh ngân hàng có vai trò như chất xúc tác đối với các hợp đồng kinh tế. Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể yên tâm ký kết và có trách nhiệm với hợp đồng mình đã ký kết. Bảo lãnh đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia và là công cụ thúc đẩy trao đổi buôn bán giữa các bên do đó có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế.
Bảo lãnh ngân hàng còn có vai trò rất quan trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các chủ thể kinh tế. Các đơn vị kinh tế có thể dễ dàng trong vịêc tìm kiếm những nguồn vốn rẻ cả trong và ngoài nước khi có được sự bảo lãnh của ngân hàng. Điều này còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hơn đối với nền kinh tế Việt Nam. Với đặc điểm đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường, nghiệp vụ bảo lãnh thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế, góp phần tăng tổng sản phẩm quốc dân. Bảo lãnh giúp tạo dựng uy tín cho các doanh nghiệp Việt Nam, giúp cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường ra nước ngoài, tăng vị thế của hàng Việt Nam.
Bảo lãnh ngân hàng cũng là một trong những giải pháp để phòng chống rủi ro có hiệu quả và được sử dụng phố biến trong các hoạt động tín dụng, xây dựng và thương mại. Do đó với bảo lãnh ngân hàng, nền kinh tế có điều kiện để phát triển một cách ổn định và an toàn hơn.
Và thực tế đã chứng minh nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển, nó đã thể hiện sự cần thiết cũng như vai trò và tác dụng hữu hiệu không chỉ từng doanh nghiệp mà còn cả nền kinh tế một nước và nền kinh tế thế giới.
1.2 Các hình thức bảo lãnh Ngân hàng
1.2.1 Căn cứ vào phương thức phát hành
1.2.1.1 Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp là một bảo lãnh ngân hàng trong đó ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm trực tiếp với bên thụ hưởng, bên được bảo lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp với ngân hàng phát hành.
Như vậy trong bảo lãnh trực tiếp gồm có : Hợp đồng thương mại giữa bên thụ hưởng và bên được bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh giữa ngân hàng phát hành và bên được bảo lãnh, cam kết bảo lãnh do ngân hàng phát hành gửi cho bên thụ hưởng.
Sơ đồ 1.1: Bảo lãnh trực tiếp
NH phát hành
(NH của người mua)
Bên thụ hưởng
(Người bán)
Bên được bảo lãnh
(Người mua)
(3)
(2) (1)
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh trực tiếp:
(1) Người mua và người bán thoả thuận ký kết hợp đồng mua-bán trong đó có điều kiện yêu cầu người mua phải có bảo lãnh thanh toán cho người bán;
(2) Người mua gửi "Đơn đề nghị phát hành bảo lãnh", đề nghị ngân hàng của mình phát hành một bảo lãnh theo mẫu hay theo những điều khoản đã thoả thuận với người bán;
(3) Ngân hàng của người mua gửi "Cam kết bảo lãnh" cho người bán nêu lên những điều kiện và phạm vi bảo lãnh;
Ưu điểm của hình thức bảo lãnh này là loại bảo lãnh đơn giản nhất và người xin bảo lãnh thì không phải mất phí hoa hồng cho bên ngân hàng đại lý. Bảo lãnh này thường được sử dụng trong các quan hệ kinh tế trong nước và chịu sự điều chỉnh của luật hoặc các quy định về bảo lãnh của nước mà ngân hàng bảo lãnh trực thuộc. Nhưng hạn chế trong các quan hệ kinh tế, ngoại giao với nước ngoài.
1.2.1.2 Bảo lãnh gián tiếp
Khác với bảo lãnh trực tiếp, vì một lý do nào đó, người bán không tin tưởng vào khả năng tài chính của ngân hàng của người mua. Người bán yêu cầu bảo lãnh thanh toán phải được phát hành bởi một ngân hàng ở nước của người bán, và do người bán chỉ định, vì vậy mà xuất hiện bảo lãnh gián tiếp.
Như vậy bảo lãnh gián tiếp là bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác (bảo lãnh đối ứng).
Bảo lã đối ứng là một cam kết của ngân hàng trung gian thanh toán cho ngân hàng phát hành bảo lãnh khi mà ngân hàng phát hành thực hiện đúng những điều khoản được quy định trong bảo lãnh đối ứng.
Sơ đồ 1.2: Bảo lãnh gián tiếp
NH phát hành
(NH A)
Bên thụ hưởng
(Người bán)
NH chỉ dẫn
(NH B)
Bên được bảo lãnh
(Người mua)
(4)
(3) (1)
(2)
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh gián tiếp:
(1) Người mua và người bán thoả thuận ký kết hợp đồng mua-bán trong đó có điều kiện yêu cầu người mua phải có bảo lãnh thanh toán cho người bán và bảo lãnh phải do ngân hàng mà người bán chỉ định phát hành;
(2) Người mua đề nghị ngân hàng của mình (NHB) chỉ thị cho ngân hàng mà người bán chỉ định phát hành một bảo lãnh theo mẫu hay theo những điều khoản và điều kiện đã thoả thuận với người bán. Người mua có thể sẽ phải ký quỹ hoặc hay thế chấp tài sản của mình theo yêu cầu của NHB để được thực hiện đề nghị trên;
(3) NHB phát hành bảo lãnh đối ứng gồm những nội dung như đề nghị của người mua và đề nghị NHA phát hành thư bảo lãnh cho bên thụ hưởng. NHA nhận được bảo lãnh đối ứng từ NHB và nội dung đề nghị phát hành thư bảo lãnh. Bảo lãnh đối ứng là một cam kết của NHB thanh toán cho NHA (Bên thụ hưởng của bảo lãnh đối ứng) khi NHA thực hiện đúng những điều khoản được quy định trong bảo lãnh đối ứng;
(4) NHA gửi thư bảo lãnh cho bên thụ hưởng. NHA cam kết thanh toán cho Bên thụ hưởng nếu bên thụ hưởng xuất trình những chứng từ theo yêu cầu trong thư bảo lãnh;
Trong bảo lãnh gián tiếp thì người thụ hưởng hoàn toàn không có quyền yêu cầu ngân hàng trung gian thanh toán bảo lãnh. Giữa ngân hàng trung gian và người thụ hưởng hoàn toàn không có quan hệ gì hay nói cách khác ngân hàng trung gian không có nghĩa vụ thanh toán cho người thụ hưởng. Tương tự như vậy thì ngân hàng phát hành bảo lãnh hoàn toàn không có quyền yêu cầu người được bảo lãnh bồi hoàn. Chỉ có trung gian mới có nghĩa vụ bồi hoàn cho ngân hàng phát hành theo bảo lãnh đối ứng.
Với bảo lãnh gián tiếp người được bảo lãnh thường phải chịu chi phí bảo lãnh cao hơn so với bảo lãnh trực tiếp.
1.2.1.3 Bảo lãnh được xác nhận
Khác với bảo lãnh gián tiếp, bảo lãnh được xác nhận có một ngân hàng phát hành và một ngân hàng xác nhận. Bên thụ hưởng có thể muốn một ngân hàng trong nước có quan hệ với mình xác nhận một bảo lãnh do một ngân hàng nước ngoài phát hành. Loại bảo lãnh này rất ít xảy ra vì nếu không tin tưởng vào khả năng tài chính của ngân hàng phát hành thì bên thụ hưởng có thể yêu cầu bảo lãnh gián tiếp.
Sơ đồ 1.3: Bảo lãnh được xác nhận
NH phát hành
(NH của người mua)
NH xác nhận
Bên được bảo lãnh
(Người mua)
Bên thụ hưởng
(Người bán)
(3)
(2) (4)
(1)
Quy trình bảo lãnh được xác nhận
(1) Người mua và người bán thoả thuận ký kết hợp đồng mua-bán trong đó có điều kiện yêu cầu người mua phải có bảo lãnh thanh toán cho người bán và bảo lãnh phải được xác nhận bởi ngân hàng mà người bán chỉ định;
(2) Người mua đề nghị ngân hàng của mình phát hành một bảo lãnh theo mẫu hay theo những điều khoản đã thoả thuận với người bán;
(3) Ngân hàng phát hành bảo lãnh gửi thư bảo lãnh sang ngân hàng xác nhận,yêu cầu xác nhận khả năng tài chính của ngân hàng phát hành. Để được xác nhận bảo lãnh thì ngân hàng phát hành có thể phải mở một tài khoản ký quỹ tại ngân hàng xác nhận hoặc phát hành một bảo lãnh cam kết thanh toán cho ngân hàng xác nhận trong trường hợp ngân hàng xác nhận phải thanh toán bảo lãnh;
(4) Ngân hàng xác nhận gửi bảo lãnh do ngân hàng phát hành phát hành đã được xác nhận cho bên thụ hưởng và cam kết thanh toán trong trường hợp ngân hàng phát hành không có khả năng chi trả;
1.2.1.4 Đồng bảo lãnh
Trong một số dự án có giá trị bảo lãnh lớn, để giảm thiểu rủi ro các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này một ngân hàng đóng vai trò đầu mối phát hành bảo lãnh nhưng có sự tham gia của các ngân hàng khác. Nếu chi trả cho người thụ hưởng theo bảo lãnh đã lập, ngân hàng chính có thể đòi bồi hoàn từ các ngân hàng cùng tham gia đồng bảo lãnh theo tỉ lệ tham gia của họ, dựa trên các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại