Chuyên đề Một số giải pháp phát triển các dịch vụ ngân hàng tại VPBank

VPBank tên đầy đủ là Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993. Sau 13 năm hoạt động, trải qua nhiều khó khăn thử thách, đến nay có thể nói VPBank đã bước đầu thành công trong việc xây dựng thương hiệu của mình. Năm 2000 đánh dấu một chuyển biến quan trọng trong quá trình phát triển của VPBank. Đó là việc Hội đồng quản trị quyết định lựa chọn mục tiêu chiến lược của VPBank cho tới năm 2010 là xây dựng VPBank trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam và trong khu vực. Khách hàng tiềm năng quan trọng nhất của VPBank sẽ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể và phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của dân cư. Việc xác định lại mục tiêu chiến lược nói trên là một quyết định táo bạo và kiên quyết của Hội đồng quản trị dựa trên những phân tích khoa học xác đáng. Xác định lại chiến lược, nhằm vào các đối tượng khách hàng chính, VPBank thiết kế lại toàn bộ các sản phẩm của mình và sắp xếp, chấn chỉnh lại toàn bộ bộ máy tổ chức để phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời VPBank đã không ngừng cải tiến phong cách phục vụ, tích cực nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đưa ra các sản phẩm dịch vụ đa dạng và có tính cạnh tranh cao. Thực tế đã chứng minh rằng định hướng phát triển trở thành ngân hàng bán lẻ của VPBank là hoàn toàn đúng đắn. Năm 2005 VPBank đã chính thức thoát khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt. Vượt qua giai đoạn khủng hoảng kéo dài (1997 – 2004), VPBank đã vươn lên khẳng định được mình với uy tín thương hiệu ngày càng vững mạnh, tình hình tài chính lành mạnh và chất lượng hoạt động được kiểm soát tốt. Kết thúc năm tài chính 2005, tỷ lể chia cổ tức của VPBank đạt 20%. Có thể nói VPBank đang hoàn thiện trên từng bước tiến của mình. Tuy đã đạt được những thành công đáng khích lệ nhưng để vươn tới vị trí ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam thì VPBank còn rất nhiều việc phải làm đặc biệt là trong thời gian sắp tới, khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, mở cửa hoàn toàn thị trường tài chính cho các ngân hàng nước ngoài Sau 15 tuần thực tập tại VPBank, với mục đích tìm hiểu các hoạt động thực tế và các dịch vụ của một ngân hàng em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Một số giải pháp phát triển các dịch vụ ngân hàng tại VPBank”.

doc67 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp phát triển các dịch vụ ngân hàng tại VPBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU VPBank tên đầy đủ là Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993. Sau 13 năm hoạt động, trải qua nhiều khó khăn thử thách, đến nay có thể nói VPBank đã bước đầu thành công trong việc xây dựng thương hiệu của mình. Năm 2000 đánh dấu một chuyển biến quan trọng trong quá trình phát triển của VPBank. Đó là việc Hội đồng quản trị quyết định lựa chọn mục tiêu chiến lược của VPBank cho tới năm 2010 là xây dựng VPBank trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam và trong khu vực. Khách hàng tiềm năng quan trọng nhất của VPBank sẽ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể và phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của dân cư. Việc xác định lại mục tiêu chiến lược nói trên là một quyết định táo bạo và kiên quyết của Hội đồng quản trị dựa trên những phân tích khoa học xác đáng. Xác định lại chiến lược, nhằm vào các đối tượng khách hàng chính, VPBank thiết kế lại toàn bộ các sản phẩm của mình và sắp xếp, chấn chỉnh lại toàn bộ bộ máy tổ chức để phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời VPBank đã không ngừng cải tiến phong cách phục vụ, tích cực nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đưa ra các sản phẩm dịch vụ đa dạng và có tính cạnh tranh cao. Thực tế đã chứng minh rằng định hướng phát triển trở thành ngân hàng bán lẻ của VPBank là hoàn toàn đúng đắn. Năm 2005 VPBank đã chính thức thoát khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt. Vượt qua giai đoạn khủng hoảng kéo dài (1997 – 2004), VPBank đã vươn lên khẳng định được mình với uy tín thương hiệu ngày càng vững mạnh, tình hình tài chính lành mạnh và chất lượng hoạt động được kiểm soát tốt. Kết thúc năm tài chính 2005, tỷ lể chia cổ tức của VPBank đạt 20%. Có thể nói VPBank đang hoàn thiện trên từng bước tiến của mình. Tuy đã đạt được những thành công đáng khích lệ nhưng để vươn tới vị trí ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam thì VPBank còn rất nhiều việc phải làm đặc biệt là trong thời gian sắp tới, khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, mở cửa hoàn toàn thị trường tài chính cho các ngân hàng nước ngoài… Sau 15 tuần thực tập tại VPBank, với mục đích tìm hiểu các hoạt động thực tế và các dịch vụ của một ngân hàng em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Một số giải pháp phát triển các dịch vụ ngân hàng tại VPBank”. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG VÀ CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG 1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Đồng thời ngân hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình. Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Đối với người tiêu dùng, ngân hàng là nơi họ gửi tiền tiết kiệm và cung cấp tín dụng giúp họ đáp ứng những nhu cầu chi tiêu. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn… Tóm lại, khi xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế cũng trở nên ngày càng quan trọng. 1.1. Sự hình thành ngân hàng Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển của nền kinh tế là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của ngân hàng lại trở thành động lực cho nền kinh tế phát triển. Thợ vàng chính là những người đầu tiên thực hiện nghề ngân hàng thông qua nghiệp vụ đúc tiền và đổi tiền của họ. Vì vậy, những ngân hàng đầu tiên được gọi là ngân hàng thợ vàng. Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia kết hợp với sự phát triển của thương mại đã tạo ra yêu cầu đúc, đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại lớn. Những làm nghề đúc, đổi tiền kinh doanh bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Họ thu lợi nhuận từ phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Người làm nghề đổi tiền thường là những người giàu có. Họ thường có két tốt để cất giữ tiền bạc, của cải của mình. Do nhu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn… rất lớn, nhiều người làm nghề đổi tiền cung cấp luôn cả dịch vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ tài sản làm tăng thu nhập, tăng sự đa dạng các loại tiền, tăng qui mô tài sản của những người kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ tài sản này là điều kiện để những người làm nghề đổi tiền có thể làm trung gian thanh toán. Thanh toán qua trung gian làm nảy sinh nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt và đến lượt nó những ưu điểm của thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Như vậy trong điều kiện đồng tiền kim loại được sử dụng trong lưu thông, các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền và cho vay nặng lãi. Các chủ cửa hàng này gọi là những người kinh doanh tiền tệ hay nhà buôn tiền. Ban đầu, những nhà buôn tiền còn dùng vốn tự có của mình để cho vay nhưng điều đó không kéo dài. Sau một thời gian hoạt động, họ nhận thấy rằng thường xuyên có những người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra nhưng tất cả những người gửi tiền không lấy tiền ra cùng một lúc. Điều này đã tạo ra một số lượng tiền dư thường xuyên trong két. Lợi dụng tính chất vô danh của tiền, nhà buôn tiền đã sử dụng tạm thời số dư tiền này để cho vay và thu lãi. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền từ cho vay nặng lãi sang cho vay dựa trên tiền gửi của khách hàng – Ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên số dư tiền gửi của khách đã tạo ra lợi nhuận lớn cho ngân hàng nên các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút các nguồn tiền gửi vào ngân hàng mình bằng cách trả lãi cho người gửi tiền… Ngày nay, ngân hàng đã trở thành một tổ chức quan trọng trong nền kinh tế. Các dịch vụ ngân hàng không còn bó hẹp trong phạm vi cất giữ hộ của cải, trung gian thanh toán, nhận tiền gửi và cho vay nữa, hoạt động của các ngân hàng đã đa dạng hơn rất nhiều và đang dần dần mở rộng sang các lĩnh vực như cung cấp dịch vụ bất động sản, môi giới chứng khoán, tham gia các hoạt động đầu tư vào quỹ hỗ tương, bảo hiểm, bảo lãnh… và nhiều nghiệp vụ mới khác. Có rất nhiều định nghĩa được đưa ra về ngân hàng nhưng cách định nghĩa toàn diện nhất là dựa trên những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. 1.2. Lịch sử phát triển Hình thức ngân hàng đầu tiên – ngân hàng của các thợ vàng – cho vay chủ yếu là đối với các cá nhân, chủ yếu là những người giàu có: Quan lại, địa chủ… nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Nhiều ngân hàng lớn còn mở rộng cho vay tài trợ một phần cho những chi tiêu cần dùng trong chiến tranh của các vua chúa. Hình thức cho vay chủ yếu thời đó là thấu chi, có nghĩa là: cho phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng. Đây là một hình thức cho vay chứa rất nhiều rủi ro. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao nên nhiều chủ ngân hàng đã phát hành chứng chỉ tiền gửi khống (có giá trị lưu thông như vàng, bạc) để cho vay. Khi xảy nhiều khách hàng gặp rủi ro, các ngân hàng cho vay theo hình thức này gặp khó khăn về khả năng thanh toán và rơi vào tình trạng phá sản. Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán và tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của các nhà buôn. Trước tình trạng đó, nhiều nhà buôn đã góp vốn lại thành lập một ngân hàng của riêng mình với chức năng chủ yếu là cho vay ngắn hạn và thanh toán hộ gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Ngân hàng này được gọi là ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như: nhận tiền gửi, cho vay, cất trữ hộ và trung gian thanh toán. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại đã phát triển hơn các ngân hàng thợ vàng ở một điểm cơ bản đó là: ngân hàng thương mại chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Đây là các khoản cho vay ngắn hạn dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hóa với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay. Sau một thời gian hoạt động, sự sụp đổ của nhiều ngân hàng thương mại đã gây tổn thất lớn cho những người gửi tiền. Trong tình hình đó, các ngân hàng tiền gửi đã xuất hiện. Ngân hàng này không cho vay, chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán hộ để lấy phí. Đồng thời tại mỗi nước, trong những điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nhiều loại ngân hàng khác như ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng trung ương… tạo nên hệ thống ngân hàng. Trong hệ thống đó, ngân hàng trung ương làm chức năng xây dựng và quản lí chính sách tiền tệ quốc gia còn các ngân hàng khác dù có một số nghiệp vụ khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung là thực hiện chức năng của một trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ. Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến vượt bậc. Sự phát triển này thể hiện ở việc đa dạng hóa các loại hình ngân hàng và các hoạt động ngân hàng. Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn trong các ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước … Đến nay, các ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Nhiều ngân hàng mở rộng sang cho vay tiêu dùng, cho thuê tài chính, kinh doanh chứng khoán… Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú. Các loai tiền gửi khác được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động của ngân hàng làm cho các hoạt động này càng ngày càng đơn giản, dễ tiếp cận hơn đối với khách hàng. Thanh toán điện tử đang dần dần thay thế thanh toán thủ công, đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng tại nhà đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho cả khách hàng lẫn ngân hàng.. Trong quá trình phát triển, các ngân hàng không chỉ gia tăng về số lượng dịch vụ mà còn phát triển cả về quy mô. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản đã tạo ra các tập đoàn ngân hàng cực lớn với số vốn tự có lên tới hàng chục tỷ đô la Mỹ, tổng tài sản đạt hàng trăm tỷ đô la Mỹ, đủ sức tài trợ cho những ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn trên toàn cầu. Trên thế giới hiện nay, các ngân hàng đang có xu thế liên kết, hợp tác với nhau ngày càng chặt chẽ, thúc đẩy hình thành các hiệp hội, các tổ chức liên kết, các ngân hàng đa quốc gia nhằm tạo ra các chính sách chung, hoặc tương thích để kiểm soát chung, để kết nối và tạo ra sự thống nhất trong điều hành và vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Cùng với những bước phát triển thăng trầm của nền kinh tế thế giới. Trong lịch sử phát triển của ngân hàng cũng đã xảy ra không ít những cuộc khủng hoảng. Những cuộc khủng hoảng này dù lớn hay nhỏ cũng gây ra những tác động xấu đến nền kinh tế và chính trị cho một quốc gia, một khu vực hay thậm chí cho cả thế giới. Tuy nhiên cũng từ những cuộc khủng hoảng đó mà các nhà quản lý đã rút ra được nhiều bài học quý báu giúp cho sự phát triển ổn định của ngành ngân hàng trong tương lai. 2. Các dịch vụ ngân hàng Trải qua hàng trăm năm phát triển, đến nay hoạt động của các ngân hàng ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp hơn. Mặc dù vậy, các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với ngân hàng và đang tồn tại phát triển song song với các dịch vụ hiện đại khác. 2.1. Các dịch vụ truyền thống Thực hiện mua bán, trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ- một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một loại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố mà họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: Ngay ở thời kì đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất. Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng-một quỹ sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch sử đã có mức kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả mức lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kịêm. Bảo quản, cất giữ hộ vật có giá: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong những kho bảo quản chắc chắn của mình. Những giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát - ghi nhận về các tài sản của khách hàng đang được ngân hàng lưu giữ - có thể có giá trị lưu hành như tiền. Đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá vẫn được các ngân hàng cung cấp cho khách hàng và thưòng do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thanh toán: Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một trong những dịch vụ mới quan trọng nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch - một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiết kiệm có thể viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa, dịch vụ. Đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này đánh dấu một bước đi quan trọng nhất trong ngành ngân hàng vì nó đã cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn. Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của hệ thống ngân hàng, các phương thức thanh toán của ngân hàng không còn giới hạn trong một quốc gia nữa mà đã mở rộng ra phạm vi quốc tế với các dịch vụ đa dạng như: nhờ thu, phát hành L/C, chuyển tiền quốc tế… Cung cấp dịch vụ ủy thác: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại và thu phí trên cơ sở giá trị tài sản hay quy mô vốn họ quản lý. Dịch vụ này được gọi là dịch vụ ủy thác. Hiện nay ngân hàng đang cung cấp hai loại dịch vụ ủy thác là: ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và dịch vụ ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp. Dịch vụ ủy thác cá nhân giúp khách hàng thực hiện việc tiết kiệm các khoản tiền cho các mục đích riêng trong tương lai. Khách hàng gửi tại ngân hàng một số tiền nhất định, ngân hàng sẽ thay khách hàng quản lý và đầu tư khoản tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Trong ủy thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng còn đóng vai trò đại lý cho các công ty này trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Ở các nước phát triển, dịch vụ ủy thác là một dịch vụ đem lại nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại. Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ: Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã gây chú ý cho các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn (chi cho chiến tranh, cứu trợ thiên tai…) và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép và kiểm soát các hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng được cấp phép hoạt động với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện các chính sách của Chính phủ ở một mức độ nào đó và phải tài trợ cho Chính phủ. (Thường là các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà các ngân hàng huy động được) 2.2. Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây Dưới sự tác động của môi trường kinh tế - xã hội, của khoa học kĩ thuật… Các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Ngày nay, các ngân hàng không chỉ cung cấp các dịch vụ truyền thống của mình mà đã phát triển thêm nhiều dịch vụ mới… Một số yếu tố có tác động mạnh mẽ đế các hoạt động ngân hàng ngày nay: Sự gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng: để tăng lợi nhuận của mình, các ngân hàng đã không ngừng nghiên cứu, đưa vào các dịch vụ mới để thu hút khách hàng. Quá trình mở rộng các dịch vụ đã thực sự gia tăng từ những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác và đặc biệt là từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng. Việc đưa vào triển khai các dịch vụ mới đã làm gia tăng chi phí hoạt động của ngân hàng, dẫn đến rủi ro phá sản cao hơn. Tuy nhiên các dịch vụ mới này cũng có những ảnh hưởng tốt đến ngành ngân hàng thông qua việc tạo ra những nguồn thu mới: các khoản lệ phí khi thực hiện dịch vụ - đây là một bộ phận có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi. Sự phi quản lý hóa của chính phủ: sự giảm bớt sức mạnh kiểm soát của chính phủ cũng là một yếu tố thúc đẩy sự cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ vủa ngân hàng. Điều này bắt đầu từ những năm 80 ở Mỹ và đã lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi đầu, chính phủ nâng lãi suất trần đối với tiết kiệm nhằm giúp công chúng có thu nhập khá hơn từ khoản tiết kiệm của mình. Việc làm này của chính phủ đã tạo ra sự cạnh tranh mới giứa ngân hàng và các đối thủ chính của nó như hiệp hội tín dụng và cho vay, các công ty dịch vụ tài chính… Cả hai bên đều đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới có thể đem lại cho khách hàng nhiều lợi nhuận hơn. Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với gia tăng cạnh tranh đã làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Các ngân hàng phải trả lãi nhiều hơn để có thể chiến thắng đối thủ cạnh tranh trong việc huy động vốn. Thêm vào đó, chính phủ còn yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn để tài trợ cho tài sản của mình. Trước tình hình đó, các ngân hàng buộc phải tìm cách cắt giảm các chị phí hoạt động khác như cắt giảm nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại… Đồng thời tìm ra cách huy động các nguồn vốn mới bằng cách cung cấp thêm các tiện ích cho người gửi tiền. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật đã thực sự làm thay đổi bộ mặt của ngân hàng. Từ nhiề
Tài liệu liên quan