Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp Ngành Xây dựng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 03/2007/NQ-CP ngày 19/1/2007 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước năm 2007, Chương trình công tác của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, năm qua, Bộ Xây dựng đã tập trung công tác xây dựng pháp luật, triển khai thực hiện các đề án được thông qua với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là xây dựng đồng bộ, đầy đủ, hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực thuộc ngành Xây dựng theo hướng phủ kín các lĩnh vực hoạt động, phân cấp mạnh, rõ quyền, rõ trách nhiệm, các thủ tục đơn giản, thông thoáng tạo điều kiện phát huy nguồn lực, thúc đẩy các hoạt động xây dựng của các tổ chức và cá nhân theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Với định hướng phát triển ngành Xây dựng công tác quản lý ngành ngày một hoàn thiện, các DNNXD đã đạt được sự tăng trưởng vượt bậc trong năm 2007. Bước vào năm 2008, những thuận lợi và khó khăn đan xen đòi hỏi toàn Ngành phải nỗ lực rất nhiều. Trong năm này, Ngành Xây dựng tiếp tục huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, dự kiến thực hiện đầu tư hàng năm cho giai đoạn 2006 - 2010 của các đơn vị thuộc Bộ Xây dựng bình quân khoảng 25.000 tỷ đồng/năm. Nhu cầu về vốn của các DNNXD rất lớn, trong khi đó, các DNNXD - đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn cho vay của các NHTM. Đối với Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, DNNXD là một đối tượng khách hàng quan trọng, được quan tâm đặc biệt từ năm 2006 đến nay, với tỷ trọng dư nợ cho vay DNNXD luôn chiếm hơn 40% trong tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh trong 2 năm 2006-2007. Tuy nhiên, công tác quản lý chất lượng cho vay của Chi nhánh đối với các DNNXD vẫn chưa được chú trọng bởi đây là đối tượng khách hàng mới, các cán bộ cho vay vẫn chưa có kinh nghiệm thẩm định, phân tích cũng như quản lý khoản cho vay. Do đó, việc nâng cao chất lượng cho vay DNNXD là một đòi hỏi cấp thiết trong bối cảnh cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gia tăng. Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và thực tập tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, em đã được tìm hiểu hoạt động cho vay DNNXD. Xuất phất từ thực trạng trên, em đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp Ngành Xây dựng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay DNNXD của NHTM; - Đánh giá thực trạng chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội; - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội. Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay của các doanh nghiệp ngành xây dựng tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp ngành xây dựng tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội

doc63 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp Ngành Xây dựng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Triển khai thực hiện Nghị quyết số 03/2007/NQ-CP ngày 19/1/2007 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước năm 2007, Chương trình công tác của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, năm qua, Bộ Xây dựng đã tập trung công tác xây dựng pháp luật, triển khai thực hiện các đề án được thông qua với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là xây dựng đồng bộ, đầy đủ, hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực thuộc ngành Xây dựng theo hướng phủ kín các lĩnh vực hoạt động, phân cấp mạnh, rõ quyền, rõ trách nhiệm, các thủ tục đơn giản, thông thoáng tạo điều kiện phát huy nguồn lực, thúc đẩy các hoạt động xây dựng của các tổ chức và cá nhân theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Với định hướng phát triển ngành Xây dựng công tác quản lý ngành ngày một hoàn thiện, các DNNXD đã đạt được sự tăng trưởng vượt bậc trong năm 2007. Bước vào năm 2008, những thuận lợi và khó khăn đan xen đòi hỏi toàn Ngành phải nỗ lực rất nhiều. Trong năm này, Ngành Xây dựng tiếp tục huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, dự kiến thực hiện đầu tư hàng năm cho giai đoạn 2006 - 2010 của các đơn vị thuộc Bộ Xây dựng bình quân khoảng 25.000 tỷ đồng/năm. Nhu cầu về vốn của các DNNXD rất lớn, trong khi đó, các DNNXD - đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn cho vay của các NHTM. Đối với Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, DNNXD là một đối tượng khách hàng quan trọng, được quan tâm đặc biệt từ năm 2006 đến nay, với tỷ trọng dư nợ cho vay DNNXD luôn chiếm hơn 40% trong tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh trong 2 năm 2006-2007. Tuy nhiên, công tác quản lý chất lượng cho vay của Chi nhánh đối với các DNNXD vẫn chưa được chú trọng bởi đây là đối tượng khách hàng mới, các cán bộ cho vay vẫn chưa có kinh nghiệm thẩm định, phân tích cũng như quản lý khoản cho vay. Do đó, việc nâng cao chất lượng cho vay DNNXD là một đòi hỏi cấp thiết trong bối cảnh cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gia tăng. Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và thực tập tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, em đã được tìm hiểu hoạt động cho vay DNNXD. Xuất phất từ thực trạng trên, em đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp Ngành Xây dựng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay DNNXD của NHTM; - Đánh giá thực trạng chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội; - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội. Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay của các doanh nghiệp ngành xây dựng tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp ngành xây dựng tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGÀNH XÂY DỰNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Hoạt động cho vay của các NHTM 1.1. Khái niệm cho vay Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, cho vay là một hình thức cấp tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. (Khoản 1, Điều 3) Hoạt động cho vay trước tiên phải được đặt trên quan hệ tín nhiệm, do đó doanh nghiệp muốn vay vốn được từ ngân hàng thì nhất thiết phải tạo được uy tín, niềm tin đối với các ngân hàng trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn của ngân hàng. Nhìn chung, khi ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn cần đảm bảo 3 nguyên tắc: - Doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng cho vay Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì do hai bên, ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận và ghi vào hợp đồng cho vay. Doanh nghiệp phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích thoả thuận nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ sau này. Do vậy, về phía ngân hàng trước khi cho vay cần tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của doanh nghiệp đồng thời phải kiểm tra xem doanh nghiệp có sử dụng vốn vay đúng như mục đích đã cam kết hay không. Về phía các doanh nghiệp, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay đồng thời giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với ngân hàng và củng cố quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân hàng. - Doanh nghiệp phải hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng cho vay Hoàn trả nợ gốc và lãi vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền, do đó, sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định ngân hàng cần thu hồi vốn gốc và lãi cho vay để có nguồn thu để trả gốc và lãi tiền gửi. - Ngân hàng tài trợ dựa trên những phương án (dự án) có hiệu quả Nguyên tắc này yêu cầu doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của doanh nghiệp. Trong trường hợp thấy kém an toàn, ngân hàng sẽ đòi hỏi doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo khi vay. 1.2. Vai trò của hoạt động cho vay Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Vai trò của hoạt động cho vay thể hiện trên 2 mặt: Một mặt, hoạt động cho vay là hoạt động đem lại tỷ trọng thu nhập lớn nhất so với các hoạt động khác của ngân hàng. Thông qua việc thu hồi gốc và lãi cho vay, NHTM chi trả các chi phí huy động vốn và chi phí duy trì hoạt động, đạt được mục tiêu lợi nhuận để tiếp tục phát triển. Mặt khác, hoạt động cho vay của ngân hàng góp phần tài trợ chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ. Với các doanh nghiệp, thông qua hoạt động cho vay của các NHTM, các doanh nghiệp huy động được vốn để tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, các dự án đầu tư mở rộng sản xuất, từ đó, chiếm lĩnh thị trường, mở rộng quan hệ, đạt doanh thu và lợi nhuận cao hơn,… Với các cá nhân, hộ gia đình, nhờ các khoản vay từ NHTM, các cá nhân và hộ gia đình có thể thực hiện mua sắm cơ sở vật chất, đi du học, tham gia các khoá đào tạo để nâng cao trình độ,… từ đó chất lượng cuộc sống được nâng cao, người dân có năng lực để tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Với Chính phủ, các khoản cho vay của NHTM tài trợ cho một số dự án của Chính phủ để phát triển cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ, đảm bảo an ninh và phục vụ các mục tiêu xã hội,… Như vậy, hoạt động cho vay của các NHTM đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt tại địa bàn mà ngân hàng hoạt động. 1.3. Phân loại hoạt động cho vay Có nhiều tiêu chí để phân loại hoạt động cho vay của các ngân hàng, trong đó, những tiêu chí thường gặp là: 1.3.1 Phân loại theo thời gian Theo cách phân loại này, hoạt động cho vay của ngân hàng được phân thành 3 loại: - Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay từ 12 tháng trở xuống, thường tài trợ cho tài sản lưu động; - Cho vay trung hạn: thời hạn cho vay từ 1 năm đến 5 năm, thường tài trợ cho tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, các trang thiết bị chóng hao mòn; - Cho vay dài hạn: thời hạn cho vay trên 5 năm, thường tài trợ cho công trình xây dựng, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu. 1.3.2. Phân loại theo hình thức đảm bảo Về nguyên tắc, mọi khoản cho vay của ngân hàng đều phải có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng cho vay loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Do đó, theo hình thức đảm bảo có thể phân loại hoạt động cho vay thành 2 loại: - Cho vay không cần tài sản đảm bảo: được cấp cho khách hàng có uy tín, các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc đối tượng có chỉ thị của Chính phủ là không cần tài sản đảm bảo. - Cho vay dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận khoản cho vay về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo, có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo. 1.3.3. Phân loại theo mức độ rủi ro Cho vay bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục cho vay, dự trù quỹ cho các khoản cho vay rủi ro cao, đánh giá chất lượng cho vay. Theo cách này, ngân hàng có thể phân loại các khoản cho vay thành 4 nhóm: - Các khoản cho vay lành mạnh: là các khoản cho vay có khả năng thu hồi cao; - Các khoản cho vay có vấn đề: các khoản cho vay có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,… - Các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn,… - Các khoản nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp có giá trị nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì,… Hiện nay, các NHTM Việt Nam thực hiện phân loại nợ theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để quản lý rủi ro tín dụng, trong đó, các khoản cho vay (các khoản nợ của khách hàng) được phân thành 5 nhóm: - Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán; - Nhóm 2: nợ cần chú ý - nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ - bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ; - Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn - nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn - bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày; - Nhóm 4: nợ nghi ngờ -nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao - bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; - Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn - nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn - bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Mặc dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như trên, các NHTM vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm. 1.3.4. Phân loại theo các tiêu chí khác Có thể phân loại các khoản cho vay theo các tiêu chí khác như: Theo đối tượng khách hàng (khách hàng mới, khách hàng có quan hệ lâu năm,…); Theo ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch,…); Theo mục đích sử dụng (sản xuất, tiêu dùng); … Các cách phân loại trên cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Việc phân loại cho phép ngân hàng theo dõi và đánh giá các khoản cho vay để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp. 1.4. Các hình thức cho vay Để thoả mãn tốt nhất các nhu cầu đa dạng của doanh nghiệp, ngân hàng luôn tìm cách đa dạng hóa các hình thức cho vay. Ngân hàng thường áp dụng các hình thức cho vay sau: 1.4.1. Cho vay trực tiếp từng lần Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các doanh nghiệp không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Với hình thức này, mỗi lần doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp phải lập một bộ hồ sơ vay vốn theo quy định của ngân hàng, ngân hàng sẽ tiến hành phân tích doanh nghiệp và ký kết hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Toàn bộ quá trình xét duyệt cho vay, kiểm tra giám sát tình hình vốn vay và thu hồi nợ được thực hiện theo từng hợp đồng. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình doanh nghiệp sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố dịnh hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo. Hình thức cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Do đó, hình thức này phù hợp với những doanh nghiệp chưa có độ tín nhiệm cao, chưa có quan hệ lâu dài với ngân hàng. 1.4.2. Cho vay theo hạn mức Đây là hình thức thuận tiện cho những doanh nghiệp vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Theo hình thức này, ngân hàng và doanh nghiệp xác định và thoả thuận một hạn mức cho vay duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian đó, doanh nghiệp có thể thực hiện vay trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn mức cho vay. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức cho vay được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Mỗi lần vay, doanh nghiệp chỉ cần trình bày phương án sử dụng tieề vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ ngân hàng sẽ phát tiền cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không có biểu hiện vi phạm trong hợp đồng cho vay như: sử dụng vốn sai mục đích, sử dụng vốn không hiệu quả, có nguy cơ mất vốn,… thì thông thường hạn mức cho vay sẽ được tái lập khi hết hạn hiệu lực của hợp đồng cho vay theo hạn mức, doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn của kỳ tiếp theo và gửi cho ngân hàng để xem xét duy trì hoặc điều chỉnh hạn mức cho vay cho kỳ tới. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi doanh nghiệp có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó, tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút. 1.4.3. Cho vay trả góp Khi cho vay, ngân hàng và doanh nghiệp xác định và thoả thuận số lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho hàng lâu bền, tuy nhiên hình thức này ít áp dụng. 1.4.4. Cho vay theo hạn mức thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép doanh nghiệp được chi vượt số tiền có trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi, doanh nghiệp phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấy chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ,… vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song không vượt quá hạn mức thấu chi). Khi doanh nghiệp có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Cho vay theo hạn mức thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không có đảm bảo giúp cho doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các doanh nghiệp có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. 1.4.5. Cho vay luân chuyển Cho vay luân chuyển là hình thức cho vay dựa trên sự luân chuyển cho hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và thu nợ sau khi doanh nghiệp đã bán hàng. Đầu năm hoặc quý, doanh nghiệp làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức cho vay, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức cho vay có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc nhiều năm. Đây không phải thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với doanh nghiệp để quyết định có cho vay nữa hay không. Việc cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Doanh nghiệp phải cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu từ việc bán hàng đều dùng để trả khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng với các doanh nghiệp thương mại hoặc các doanh nghiệp sản xuất cho chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ thường xuyên với ngân hàng. Hình thức này rất thuận tiện cho các doanh nghiệp, thủ tục đơn giản chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay, doanh nghiệp được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho ngươờ cung cấp sẽ nhanh gọn. Tuy nhiên, trong hình thức này nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ thì ngân hàng sẽ khó thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng. Ngoài các hình thức kể trên, trong quá trình hoạt động, các ngân hàng có thể áp dụng những hình thức cho vay khác không trái với quy định của pháp luật nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của doanh nghiệp và đem lại lợi ích cao nhất cho ngân hàng. 1.5. Chính sách cho vay và quy trình của NHTM 1.5.1. Chính sách cho vay của NHTM Chính sách cho vay phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ cho vay và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích cho vay, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động cho vay nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Đối với các doanh nghiệp, chính sách cho vay của ngân hàng cần xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng: - Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp trong các ngành, lĩnh vực khác nhau; - Khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng của các doanh nghiệp trong tình hình nền kinh tế và trong từng ngành, lĩnh vực; - Chính sách của Chính phủ đối đối với các ngành, lĩnh vực và với các doanh nghiệp, như chính sách ưu đãi, chính sách phát triển ngành, đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp trong ngành,…; - Quy mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn của ngân hàng, quy mô vốn chủ sở hữu,… ảnh hưởng đến chính sách cho vay của ngân hàng. Ví dụ, với nguồn tiền gửi lớn, ổn định, ngân hàng có thể gia tăng các khoản cho vay trung và dài hạn. Nội dung của chính sách cho vay của NHTM bao gồm: - Chính sách khách hàng Ngân hàng có thể phân loại các doanh nghiệp theo quan hệ của doanh nghiệp với ngân hàng, như phân loại thành: khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng, khách hàng khác,…Với từng nhóm khách hàng, ngân hàng có chính sách ưu đãi riêng cho các doanh nghiệp trong nhóm đó. Đây là nội dung có liên quan đến chính sách marketing của ngân hàng. Đồng thời việc phân nhóm khách hàng sẽ giúp ngân hàng thuận lợi hơn trong việc quản lý các khoản cho vay, tiết kiệm chi phí thu thập thông tin và phân tích. - Chính sách quy định quy mô và giới hạn cho vay Ngân hàng cam kết tài trợ cho doanh nghiệp với số tiền hoặc hạn mức nhất định. Ngân hàng có thể tài trợ tối đa bằng nhu cầu của doanh nghiệp và phù hợp với các điều luật dựa trên các
Tài liệu liên quan