Đại hội IX của đảng đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001- 2010 được gọi là “chiến lược đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Để đạt được mục tiêu CNH-HĐH trước tiên đảng và nhà nước phải coi trọng phát triển công nghiệp. Công nghiệp được coi là ngành chủ đạo của nền kinh tế, điều này được thể hiện ở vai trò của nó trong việc:Cung cấp tư liệu sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế ,tác động vào sản xuất nông nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, cung cấp hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân, góp phần giải quyết việc làm cho xã hội và là một hình mẫu về tổ chức sản xuất.
Một trong các giải pháp nhằm phát triển công nghiệp là chúng ta phải quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp tập trung, khu chế suất nhằm huy động và phát huy những thế mạnh của vùng vừa tạo đà thu hút vốn và khoa học kỹ thuật bên ngoài.
Sau một thời gian thực tập tại sở kế hoạch và đầu tư Bắc Ninh em đã nhận thấy các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã và đang góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế và giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên mô hình khu công nghiệp vẫn còn một số mặt hạn chế nhất định.Do đó em đã chọn đề tài nghiên cứu:“phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp” để tìm ra những hạn chế bất cập và các giải pháp kèm theo, nhằm phát triển các khu công nghiệp, từ đó tạo đà phát triển kinh tế của tỉnh, góp phần vào công cuộc CNH-HĐH đất nước.
+ Đề tài nghiên cứu gồm 3 phần:
- Phần một: Lý luận về phát triển khu công nghiệp.
- Phần hai: Đánh giá thực trạng phát triển các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.
- Phần ba: Những giải pháp nhằm phát triển các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
82 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến PGS.TS Phạm Văn Vận người đã trực tiếp hướng dẫn, dành nhiều thời gian và kinh nghiệm quý báu của báu của mình cho em trong suốt quá trình làm chuyên đề.
Cho em bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến khoa Kế Hoạch và Phát Triển, toàn thể các thầy cô trong khoa đã tận tình giúp đỡ em trong suốt 4 năm học tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của tập thể cán bộ phòng Văn Hóa – Xã Hội thuộc sở kế hoạch và đầu tư Bắc Ninh trong suốt quá trình thực tập.
Cuối cùng em vô cùng cảm ơn tới những người thân, bạn bè về sự giúp đỡ động viên, đóng những ý kiến quý báu trong suốt quá trình học tập.
Hà Nội ngày 25 tháng 04 năm 2008
Tác giả
Nghiêm Đình Thường
LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội IX của đảng đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001- 2010 được gọi là “chiến lược đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Để đạt được mục tiêu CNH-HĐH trước tiên đảng và nhà nước phải coi trọng phát triển công nghiệp. Công nghiệp được coi là ngành chủ đạo của nền kinh tế, điều này được thể hiện ở vai trò của nó trong việc:Cung cấp tư liệu sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế ,tác động vào sản xuất nông nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, cung cấp hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân, góp phần giải quyết việc làm cho xã hội và là một hình mẫu về tổ chức sản xuất.
Một trong các giải pháp nhằm phát triển công nghiệp là chúng ta phải quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp tập trung, khu chế suất nhằm huy động và phát huy những thế mạnh của vùng vừa tạo đà thu hút vốn và khoa học kỹ thuật bên ngoài.
Sau một thời gian thực tập tại sở kế hoạch và đầu tư Bắc Ninh em đã nhận thấy các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã và đang góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế và giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên mô hình khu công nghiệp vẫn còn một số mặt hạn chế nhất định.Do đó em đã chọn đề tài nghiên cứu:“phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp” để tìm ra những hạn chế bất cập và các giải pháp kèm theo, nhằm phát triển các khu công nghiệp, từ đó tạo đà phát triển kinh tế của tỉnh, góp phần vào công cuộc CNH-HĐH đất nước.
+ Đề tài nghiên cứu gồm 3 phần:
- Phần một: Lý luận về phát triển khu công nghiệp.
- Phần hai: Đánh giá thực trạng phát triển các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.
- Phần ba: Những giải pháp nhằm phát triển các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
1. Khái niệm KCN
Từ những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, KCN đã được hình thành và phát triển ở các nước tư bản phát triển. Ban đầu các KCN được xem như một mô hình quy hoạch công nghiệp. Với quá trình phát triển, KCN đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực, do vậy sau đó KCN được xem như một công cụ để phát triển kinh tế. KCN xuất hiện ngày càng nhiều dưới những hình thức khác nhau và lợi ích thiết thực của việc phát triển KCN đã được nhiều nước trên thế giới thừa nhận. KháI niệm về KCN cũng được bàn cãi trong một thời gian dài, đên nay vẫn chưa đi đến thống nhất.
Các KCN Việt Nam được ra đời vào những năm đầu thời kì đổi mới, được đánh dấu bằng sự khởi đầu của khu chế xuất Tân Thuận ( Tp Hồ Chí minh ) năm 1991. Thời gian gần đây, KCN đang được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nước ta. KháI niệm về KCN được Nhà Nước ta nêu rõ trong Quy chế khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), khu công nghệ cao (KCNC) ban hành kèm theo Nghị định 36-CP: KCN là “Khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lí xác định, không có dân cư sinh sống; do chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”
2. Phân loại KCN: Phân thành ba nhóm
+ Nhóm 1: Các khu công nghiệp mang tính truyền thống.
Loại hình này mang một số đặc trưng như sau:
KCN là một khu vực được quy hoach mang tính liên vùng, liên lãnh thổ, có phạm vi ảnh hưởng sang các vùng lân cận, xung quanh. Nó được công ty cơ sở hạ tần sử dụng vào mục đích kinh doanh, công ty này có trách nhiệm bảo đảm hạ tầng kĩ thuật và xã hội của toàn bộ khu trong suốt quá trình tồng tại và phát triển.
Ngoài ra, trong KCN không có dân cư sinh sống, nhưng ngoài KCN phải có hệ thống dịch vụ phục vụ nguồn nhân lực làm việc ở KCN.
KCN được quy hoạch riêng biệt để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp, cũng như hoạt động hỗ trợ, dịch vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp.
Các doanh nghiệp trong KCN sản xuất ra những sản phẩm để cung cấp cho thị trường trong nước và cả thị trường xuất khẩu.
+ Nhóm 2: Khu chế xuất (KCX)
KCX là “ KCN tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩi, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính Phủ hoặc Thủ tướng Chính Phủ quyết định thành lập”
So với KCN truyền thống thi KCX có một số đặc điểm riêng. Đó là:
KDX được quy hoạch phân tách khỏi phần nội địa xung quanh bằng tường rào kiên cố, để ra vào KCX cần thông qua sự kiểm soát của hải quan và cơ quan chức năng.
Các doanh nghiệp trong KCX chỉ được bán tối đa 20% giá trị sản phẩm của mình vào thị trường nội địa. Chủ yếu sản xuất ra sản phẩm để phục vu thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp trong KCX cũng được hưởng những ưu đãi dặc biệt về các lại thuế như: miễn thế xuất khẩu, nhập khẩu, miễn thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, được hưởng thế thu nhập doanh nghiệp ở mức ưu đãI là 10% và không phải chịu thuế chuyển lợi nhuận về nước của chủ đầu tư.
+ Nhóm 3 : Các khu công nghệ cao (KCNC)
KCNC là “ khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kĩ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vu cho phait triển công nghệ cao gồm nghiên cứu, triển khai Khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lý xác địnhm, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCNC có thẻ có doanh nghiệp chế xuất”
KCNC cũng là một loại hình của KCN, tuy nhiên ngoài những đặc điểm chung của KCN truyền thống thì KCNC có những nét riêng biệt sau:
Các doanh nghiệp trong KCNC hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực có hàm lượng công nghệ và chất xám cao như : nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và thực hiện các dịch vụ có liên quan.
Các doanh nghiệp trong KCNC đều đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát triển, có năng suất lao động cao, được điều hành bởi các nhà khoa học và những công nhân có trình độ tay nghề cao.
Công nghệ được sử dụng trong KCNC là những công nghệ mang tính tiên phong đi trước thời đại.
Có thể thấy rằng, giữa ba khái niệm này có liên quan với nhau. Nếu như khái niệm về khu công nghiệp truyền thống mang tính chất đặc trưng, thì KCX và KCNC mang tính chất là những hình thái đặc thùcủa KCN :
KCX là KCN mà theo đó hàng hóa sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu.
KCNC là KCN gắn với các hoạt động kỹ thuật, công nghệ cao.
KCN, KCX, KCNC là các loại hình khác nhau của khu công nghiệp tập trung. Trong đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu về khu công nghiệp truyền thống – là loại hình duy nhất phát triển trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3. Tác động của phát triển KCN đến phát triển kinh tế.
3.1. Tác động tích cực.
(1) Tác động tích cực đến quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) nhằm thực hiện mục tiêu trang bị cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam cần phải thực hiện một số tiền đề cần thiết : vốn tích lũy, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật, công nhân lành nghề và cán bộ quản lý kinh doanh ; phát triển kết cấu hạ tầng và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước.
Phát triển KCN là một trong những giải pháp để tạo dựng các tiền đề nói trên, phát triển KCN là giải pháp tổng hợp, mang tính toàn diện giải quyết đồng thời các yêu cầu về vốn, lao động, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý, là con đường tối ưu để tiến tới mục tiêu trang bị cơ sở kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
KCN huy động một lượng vốn lớn, từ nhiều nguồn để phát triển kinh tế “tính đến tháng 4 năm 2006, tổng số dự án trong các KCN thu hút vốn đầu tư trong nước là 2 400 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 116 000 tỷ đồng. Tổng số dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN là 2 200 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 17,7 tỷ USD”
KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, hiện đại từ nước ngoài là chủ yếu, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Tóm lại thành công của mô hình KCN đã được khẳng định trên Thế giới và bước đầu đã thành công ở Việt Nam, như một đòn bẩy quan trọng để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
(2) Tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và có lợi.
Sự ra đời của các khu công nghiệp đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Xu hướng này là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Bên cạnh đó, đối với cơ cấu theo thành phần sở hữu thì phát triển KCN làm tăng tỷ trọng thành phần ngoài quốc doanh, trong đó đầu tư nước ngoài là một nguồn đáng kể, điều này phù hợp với xu thế của nền kinh tế thị trường.
(3) Tác động mạnh đến quá trình đô thị hóa.
Thực tế đã chứng minh, khi phát triển các KCN làm cho tiến trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ. Cụ thể là :
Cơ sở hạ tầng trong KCN và quanh KCN được đầu tư xây dựng và nâng cấp, từ đó hình thành lên các thị tứ, thị trấn, nhiều nơi phát triển những thành phố sầm uất, có đầy đủ hệ thống điện, nước, giao thông phát triển, công trình phúc lợi hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Các KCN phát triển kéo theo cơ cấu lao động biến đổi. Lực lượng lao động trong ngành công nghiệp tăng lên, dẫn đến nâng cao tỷ lệ công nhân và dân cư thành thị.
(4) Tác động mạnh đến quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư bằng các chính sách phù hợp.
Nhằm thu hút đầu tư vào phát triển các KCN, Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách nằm tăng cường sức hút cho các KCN. Ngoài ra, các KCN đã trở thành vườn ươm, là nơi thí điểm để đưa các cơ chế, chính sách tiến bộ vào thực tế như : cơ chế “một cửa tại chỗ”, cũng như nhiều chính sách khác về hoàn thiện thủ tục kiểm quan, phát triển hoạt động tài chính – ngân hàng có sự phối hợp quản lý của các KCN.
(5) Kích thích phát triển các loại hình dịch vụ.
Sự phát triển các KCN tạo điều kiện cho sự xuất hiện các loại hình dịch vụ : điện, nước, dịch vụ ngân hàng – tài chính, xử lý chất thải, dịch vụ kho bãi, các dịch vụ cung ứng đảm bảo đời sống cho công nhân trong KCN. Các loại dịch vụ này là điều kiện tất yếu khách quan để phát triển KCN.
(6) Tác động thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính KCN Là nơi thử nghiệm đầu tiên chính sách thông thoáng với các nhà đầu tư nước ngoài; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có môi trường thông thoáng thuận lợi để kinh doanh, từ đó tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt được tại các KCN Việt Nam đã chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tạo uy tín thương mại của ?Việt Nam trên thị trường thế giới.
Do có môi trường thông thoáng, các doanh nghiệp hoạt động trong KCN có khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Tác động tiêu cực.
(1) ảnh hưởng đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế
Sự phát triển ồ ạt của các KCN, quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn chiến lược đã gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Cụ thể như : gây nên sự phân hóa giữa trong và ngoài KCN về mọi mặt; gây sự cạnh tranh, đôi khi cạnh tranh không lành mạnh giữa các KCN, thiếu sự liên kết giữa các khu, các vùng, giữa các doanh nghiệp trong cùng một khu công nghiệp. Vấn đề khai thác và sử dụng các thế mạnh, tài nguyên của địa phương cho KCN đôi khi không hợp lý, làm xáo trộn tình hình phát triển kinh tế – xã hội.
(2) ảnh hưởng đến vấn đề di dân, an ninh, trật tự xã hội ở nhiều vùng kinh tế.
Thông thường các KCN sử dụng lao động ở ngoài vùng có KCN, do vậy tạo nên một luồng di dân lớn. Điều này cũng kéo theo các vấn đề xã hội đảm bảo cuộc sống của lao động như: nhà ở, điện, nước sinh hoạt, các vấn đề văn hóa, vui chơi giải trí, chăm sóc sức khỏe và giáo dục cho công nhân KCN và cho gia đình họ.
(3) ảnh hưởng tới ô nhiễm môi trường
Về cơ bản, do sự tập trung quá nhiều các doanh nghiệp với các loại hình kinh doanh khác nhau mà khu công nghiệp chính là nguồn gốc ô nhiễm môi trường như : rác thải công nghiệp, ô nhiễm nguồn của các KCN ở Việt Nam. Do vậy đòi hỏi Nhà nước và các cấp, các ngành có những chính sách cũng như tổ chức tốt việc phòng chống ô nhiễm, nếu không nó sẽ gây ra những tác hại khôn lường đến đời sống, sức khỏe của người dân ở khu vực có KCN.
4. Sự cần thiết phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Bắc Ninh là một tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, nguồn lao động dồi dào và hệ thống cơ sở tương đối đảo bảo để phat triển công nghiệp. Bắc Ninh trong những năm gần đây là điểm đến của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư vào các KCN. Tuy nhiên sự phát triển các KCN hiện nay trên địa bàn tỉnh còn nhiều điều bất cập:
Một là: Quy hoạch phát triển các KCN còn thiếu đồng bộ, các KCN quy hoạch chủ yếu trên diện tích đất nông nghiệp loại I, gây lãng phí cho sản xuất nông nghiệp; quy hoạch các KCN quá gần đường giao thông gây khó khăn cho sử lí chất thải và cũng gây khó khăn cho giao thông vận tải…
Hai là: Sự tập trung cao của lao động xung quanh các KCN cũng nẩy sinh không ít các vấn đề xã hội cần phải giải quyết: Tình trạng thiếu nhà ở, điều kiện sinh hoạt khó khăn, các tệ nạn xã hội nảy sinh, các nhu cầu về giải trí văn hóa v v… cho người lao động. Đấy là vấn đề cần phải giải quyết để phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Ba là: Hiện tượng ô nhiễm môi trường trong các KCN trong địa bàn tỉnh: Nước thải, khí thải, rác thải…vẫn chưa được giải quyết tốt nhằm phát triển bền vững và không làm ảnh hưởng các vùng xung quanh KCN.
Phát triển các KCN tại Bắc Ninh là một việc vô cùng cần thiết để phát huy những tiềm năng và nguồn lực sẵn có của tỉnh. Nhưng đồng thời cũng cần phải nhìn lại thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH THỜI GIAN QUA
I. Tiền năng và nguồn lực phát triển khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
1.Vị trí địa lý.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu thổ sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh.
- Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang
- Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên và một phần Hà Nội
- Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương
- Phía Tây giáp thủ đô Hà Nội
Với vị trí như thế, xét tầm không gian lãnh thổ vĩ mô, Bắc Ninh có nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh:
- Nằm trên tuyến đường giao thông quan trọng chạy qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 18, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và các tuyến đường thuỷ như sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá và du khách giao lưu với các tỉnh trong cả nước.
- Gần thủ đô Hà Nội được xem như là một thị trường rộng lớn hàng thứ hai trong cả nước, có sức cuốn hút toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, giá trị lịch sử văn hoá... đồng thời là nơi cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ và tiếp thị thuận lợi đối với mọi miền đất nước. Hà Nội sẽ là thị trường tiêu thụ trực tiếp các mặt hàng của Bắc Ninh về nông - lâm - thuỷ sản, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ... Bắc Ninh cũng là địa bàn mở rộng của Hà Nội qua xây dựng các thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công cho các xí nghiệp của thủ đô trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh sẽ có tác động trực tiếp đến hình thành cơ cấu và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bắc Ninh về mọi mặt, trong đó đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ du lịch.
- Là cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh là cầu nối giữa Hà Nội và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, trên đường bộ giao lưu chính với Trung Quốc và có vị trí quan trọng đối với an ninh quốc phòng.
2. Tài nguyên thiên nhiên.
2..1. Tài nguyên đất:
Bắc Ninh có diện tích tự nhiên chỉ chiếm 0,2% diện tích tự nhiên cả nước và là điạ phương có diện tích tự nhiên nhỏ nhất trong 61 tỉnh, thành phố. Theo kết quả tổng điều tra đất trong tổng diện tích đất tự nhiện của Bắc Ninh, đất nông nghiệp chiếm 64,4%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 0,8%; đất chuyên dùng chiếm 17,4%; đất ở chiếm 6,5%; còn lại 10,9% là đất có mặt nước, sông suối, đồi núi chưa sử dụng.
Diện tích tự nhiên: 80393 ha. Trong đó
Đất nông nghiệp: 48980 ha
Đất nuôi trồng thủy sản: 2589 ha
Đất lâm nghiệp: 623 ha
Đất chuyên dùng: 14187 ha
Đất ở: 5240 ha
Đất chưa sử dụng: 8774 ha
2.2. Tài nguyên khoáng sản.
Bắc Ninh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây dựng như: Đất sét làm gạch, ngói, gốm, với trữ lượng khoảng 4 triệu tấn ở Quế Võ và Tiên Du, đất sét làm gạch chịu lửa ở thị xã Bắc Ninh, đá cát kết với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu - Bắc Ninh, đá sa thạch ở Vũ Ninh - Bắc Ninh có trữ lượng khoảng 300.000 m³. Ngoài ra còn có than bùn ở Yên Phong với trữ lượng 60.000 - 200.000 tấn.
2.3. Tài nguyên rừng:
Tài nguyên rừng của Bắc Ninh không lớn, chủ yếu là rừng trồng. Tổng diện tích đất rừng là 661,26 ha phân bố tập trung ở Quế Võ ( 317,9 ha ) và Tiên Du ( 254,95 ha ). Tổng trữ lượng gỗ ước tính 3.279 m³, trong đó rừng phòng hộ 363 m³, rừng đặc dụng 2916 m³.
3. Đặc điểm khí hậu:
Bắc Ninh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình năm là 23,3°C, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 28,9°C ( tháng 7), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,8°C ( tháng 1 ). Sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,1°C.
Lượng mưa trung bình hàng năm dao động trong khoảng 1400 - 1600mm nhưng phân bố không đều trong năm. Mưa tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.
Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1530 - 1776 giờ, trong đó tháng có nhiều giờ nắng trong năm là tháng 7, tháng có ít giờ nắng trong năm là tháng 1.
Hàng năm có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam. Gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau, gió mùa Đông Nam thịnh hành từ tháng 4 đến tháng 9 mang theo hơi ẩm gây mưa rào.
Nhìn chung Bắc Ninh có điều kiện khí hậu đồng đều trong toàn tỉnh và không khác biệt nhiều so với các tỉnh đồng bằng lân cận nên việc xác định các tiêu trí phát triển đô thị có liên quan đến khí hậu như hướng gió, thoát nước mưa, chống nóng, khắc phục độ ẩm... dễ thống nhất cho tất cả các loại đô thị trong vùng; việc xác định tiêu chuẩn qui phạm xây dựng đô thị có thể dựa vào qui định chung cho các đô thị vùng đồng bằng Bắc bộ
4. Về đặc điểm thuỷ văn:
Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá cao, trung bình 1,0 - 1,2 km/km², có 3 hệ thống sông lớn chảy qua gồm sông Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình…
5.Dân số và lao động:
Dân số toàn tỉnh (năm 2001): 960.919 người. Trong đó:
Nội thị: 76.660 người
Ngoại thị: 884.259 người.
Lao động xã hội (năm 2001): 536.787 người.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1997 là 10,2%; năm 2000 là 16,6%; năm 2001 là 14,1%.
Cơ sở khám chữa bệnh: 147 cơ sở. Trong đó có 02 bệnh viện đạt tiêu chuẩn Quốc gia.
6.Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh:
6.1. Kinh tế:
Bước vào năm 2007, tỉnh Bắc Ninh vừa tròn 10 năm tái lập, nhìn lại chặng đường 10 năm xây dựng và phát triển, mặc dù còn n