Rủi ro Tín dụng Ngân hàng không phải là nỗi ám ảnh của hệ thống Ngân hàng một nước mà là nỗi ám ảnh chung của hệ thống Ngân hàng trên thế giới. Những bất ngờ luôn xảy ra, ngay cả đối với những ngân hàng giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó phỏng đoán. Vì thế việc quản lí nó luôn luôn được các ngân hàng xem trọng trong mỗi thời kì.
Sau khi nước ta gia nhập WTO, lộ trình mở cửa ngành ngân hàng theo cam kết trong vòng 7 năm, theo đó 1/4/2007 nước ta đã cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài, hiện tại các ngân hàng trong nước đang thực hiện kế hoạch tăng vốn theo kế hoạch đến năm 2010. Thời gian vừa qua, ngành ngân hàng đã có tăng trưởng đáng kể, tuy nhiên việc gia nhập WTO cũng mang lại cho ngành này rất nhiều thách thức, đặc biệt là khả năng cạnh tranh của các ngân hàng, trong đó chỉ tiêu chất lượng rủi ro tín dụng là chỉ tiêu phản ánh cơ bản.
Ngân hàng Công thương Việt Nam là 1 trong 5 NHTMNN hàng đầu tại Việt Nam. Trong đó Sở giao dịch I là chi nhánh lớn của NHCT trên địa bàn Hà Nội, trong xu thế hội nhập và cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì công tác TD trong đó quản lí rủi ro TD là vô cùng cần thiết. Mặt khác sau một thời gian thực tập tại SGDI, em nhận thấy tầm quan trọng của việc quản lí rủi ro TD không chỉ qua lí thuyết mà qua thực tế tại Sở. Vì vậy em đã chọn đề tài:
“Tăng cường quản lí rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam”
trên đây để viết chuyên đề thực tập, em hi vọng nó góp phần nào đó trong công tác quản lí rủi ro TD tại Sở.
Nhân đây em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn cùng các cô và các anh chị trong phòng Quản lí rủi ro tín dụng đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong quá trình viết đề tài này!
Chuyên đề có nội dung gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lí Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lí Rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I – NHCT VN.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lí Rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I – NHCT VN.
Phạm vi nghiên cứu: lí thuyết chung về quản lí rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại, thực trạng quản lí rủi ro tín dụng tại SGD I – NHCT VN.
Phương pháp nghiên cứu: lí luận cơ bản của học thuyết kinh tế đồng thời sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh các tài liệu thu thập được về thực trạng quản lí rủi ro tại SGD I từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp góp phần giúp NH ngày càng phát triển bền vững
71 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường quản lí rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Rủi ro Tín dụng Ngân hàng không phải là nỗi ám ảnh của hệ thống Ngân hàng một nước mà là nỗi ám ảnh chung của hệ thống Ngân hàng trên thế giới. Những bất ngờ luôn xảy ra, ngay cả đối với những ngân hàng giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó phỏng đoán. Vì thế việc quản lí nó luôn luôn được các ngân hàng xem trọng trong mỗi thời kì.
Sau khi nước ta gia nhập WTO, lộ trình mở cửa ngành ngân hàng theo cam kết trong vòng 7 năm, theo đó 1/4/2007 nước ta đã cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài, hiện tại các ngân hàng trong nước đang thực hiện kế hoạch tăng vốn theo kế hoạch đến năm 2010. Thời gian vừa qua, ngành ngân hàng đã có tăng trưởng đáng kể, tuy nhiên việc gia nhập WTO cũng mang lại cho ngành này rất nhiều thách thức, đặc biệt là khả năng cạnh tranh của các ngân hàng, trong đó chỉ tiêu chất lượng rủi ro tín dụng là chỉ tiêu phản ánh cơ bản.
Ngân hàng Công thương Việt Nam là 1 trong 5 NHTMNN hàng đầu tại Việt Nam. Trong đó Sở giao dịch I là chi nhánh lớn của NHCT trên địa bàn Hà Nội, trong xu thế hội nhập và cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì công tác TD trong đó quản lí rủi ro TD là vô cùng cần thiết. Mặt khác sau một thời gian thực tập tại SGDI, em nhận thấy tầm quan trọng của việc quản lí rủi ro TD không chỉ qua lí thuyết mà qua thực tế tại Sở. Vì vậy em đã chọn đề tài:
“Tăng cường quản lí rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam”
trên đây để viết chuyên đề thực tập, em hi vọng nó góp phần nào đó trong công tác quản lí rủi ro TD tại Sở.
Nhân đây em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn cùng các cô và các anh chị trong phòng Quản lí rủi ro tín dụng đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong quá trình viết đề tài này!
Chuyên đề có nội dung gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lí Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lí Rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I – NHCT VN.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lí Rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I – NHCT VN.
Phạm vi nghiên cứu: lí thuyết chung về quản lí rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại, thực trạng quản lí rủi ro tín dụng tại SGD I – NHCT VN.
Phương pháp nghiên cứu: lí luận cơ bản của học thuyết kinh tế đồng thời sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh các tài liệu thu thập được về thực trạng quản lí rủi ro tại SGD I từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp góp phần giúp NH ngày càng phát triển bền vững.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hoạt động Tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Tín dụng Ngân hàng thương mại
Tín dụng: là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hoá, nó phản ánh quan hệ kinh tế giữa người sở hữu với người sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả gốc và lợi tức khi đến hạn.
Tín dụng ngân hàng (cho đến cuối bài được gọi tắt là Tín dụng): là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định (có thể hiểu ngắn gọn đó là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng ).
1.1.2. Vai trò của hoạt động Tín dụng
- Đối với Ngân hàng thương mại:
Tín dụng là hoạt động mang tính sơ khai, tính bản chất của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản và tạo thu nhập từ lãi lớn nhất, nó là cơ sở chủ yếu để đánh giá chất lượng hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng giữ vai trò rất quan trọng trong ngân hàng. Tuy nhiên đây cũng là hoạt động đem lại rủi ro lớn nhất. Vì vậy, khi xét vai trò của hoạt động tín dụng đối với ngân hàng thì phải xem xét từ 2 góc độ.
- Đối với nền kinh tế:
+ Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển: Tình trạng thừa thiếu vốn luôn là vấn đề của các doanh nghiệp, việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà tình trạng này cũng như góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho sản xuất được liên tục, góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó tín dụng còn tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp: để vay được vốn, DN phải đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng và tuân thủ hợp đồng cho vay, vì vậy đòi hỏi DN phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
+ Góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định đời sống xã hội:
Với chức năng của mình, tín dụng ngân hàng đã trực tiếp giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Do đó trong nền kinh tế có lạm phát thì nó được xem là công cụ hữu hiệu để giảm lạm phát.
Hoạt động tín dụng tiêu dùng giúp cho các cá nhân có điều kiện nâng cao đời sống của bản thân và gia đình, góp phần ổn định đời sống xã hội.
+ Tạo điều kiện phát triển kinh tế với các DN nước ngoài:
Hội nhập giúp nước ta có cơ hội tham gia vào thị trường thế giới, trong đó tín dụng trở thành phương tiện quan trọng nối liền nền kinh tế các nước với nhau. Trong đó tín dụng đóng vai trò cần thiết trong xuất khẩu hàng hoá, và đồng thời thu hút nguồn tín dụng từ bên ngoài để công nghiệp hoá và hiên đại hoá nền kinh tế.
1.1.3. Phân loại Tín dụng Ngân hàng
- Phân loại theo thời gian: cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
+ Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống.
+ Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm.
+ Tín dụng dài hạn: trên 5 năm.
- Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê.
+ Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu thương phiếu chưa đến hạn (hoặc 1 giấy nợ).
+ Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
+ Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lời.
+ Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo:
+ Tín dụng có tài sản đảm bảo: cho phép ngân hàng có nguồn thu nợ thứ 2 bằng cách bán tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ.
+ Tín dụng không có tài sản đảm bảo: có thể được cấp cho các khách hàng uy tín thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính lành mạnh.
- Phân loại tín dụng theo rủi ro:
+ Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
+ Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
+ Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
- Phân loại khác
+ Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp…)
+ Theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định)
+ Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…)
Cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng.
1.2. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng trong hoạt tín dụng do khách hàng không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ cả vốn lẫn lãi như cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Xét về mặt bản chất: rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động cụ thể tài trợ cho khách hàng, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Tuy nhiên không thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy trên quan điểm quản lí toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Vì thế nhiều quan điểm nhất trí rằng rủi ro tín dụng có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ nên rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng và khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, ngân hàng coi đó là thành công trong quản lí.
1.2.2. Nguyên nhân Rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Ngyên nhân xuất phát từ môi trường
- Môi trường kinh tế: một môi trường kinh tế không thuận lợi sẽ làm cho DN hoạt động kém hiệu quả, làm cho khả năng trả nợ vay của DN bị hạn chế, dẫn đến rủi ro cho các khoản vay của ngân hàng. Trong nền kinh tế khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất đình trệ…tất cả đều tác động đến khả năng thu hồi vốn của NH. Không chỉ giới hạn môi trường kinh tế của một nước mà các biến động về tài chính kinh tế thế giới đều có tác động tới hoạt động tín dụng của NH, đặc biệt là khi nền kinh tế nước ta đã gia nhập WTO.
- Môi trường pháp lí: hệ thống pháp luật không đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, ý thức tuân thủ pháp luật của chủ thể tham gia kinh doanh và các ngành có liên quan còn yếu kém đã tạo nên môi trường cạnh tranh không lành mạnh, không tạo tính an toàn trong kinh doanh. Môi trường pháp lí không hoàn chỉnh vừa gây khó khăn, vừa tạo khe hở cho kẻ xấu lợi dụng gây rủi ro cho DN và NH.
- Môi trường xã hội: trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết dẫn tới chưa hiểu đúng bản chất hoạt động NH hoặc do sự thay đổi tâm lí xã hội cũng có khả năng hạn chế trả nợ của người vay. Ngoài ra, đạo đức xã hội cũng liên quan tới rủi ro tín dụng trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo.
- Các nguyên nhân bất khả kháng khác: thiên tai, chiến tranh, những thay đổi ở tầm vĩ mô ( thay đổi Chính phủ, thay đổi chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan ) vượt quá tầm kiểm soát của cả người vay và người cho vay. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra tác động liên tục tới người vay, tạo ra cả thuận lợi và khó khăn cho họ. Thường thì tác động của các nguyên nhân này đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
1.2.2.2. Nguyên nhân xuất phát từ khách hàng
Theo thống kê thì khả năng xảy ra rủi ro tín dụng do nguyên nhân này là phổ biến nhất vì khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay.
- Do trình độ kinh doanh yếu kém của khách hàng: khả năng yếu kém của người vay trong quản lí, trong việc dự đoán các vấn đề kinh doanh, không có khả năng tính toán kĩ lưỡng các bất trắc có thể xảy ra, khả năng thích ứng thị trường và khắc phục khó khăn thấp… làm DN làm ăn không có hiệu quả, thậm chí thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ của KH.
- Do vấn đề đạo đức của khách hàng: rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì vọng thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình, họ đã tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với NH như sử dụng vốn sai mục đích, cung cấp thông tin sai, mua chuộc cán bộ NH… Hoặc có khách hàng kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho NH đúng hạn, họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
1.2.2.3. Nguyên nhân xuất phát từ phía NH
- Do trình độ yếu kém về năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ NH:
Nhân viên NH phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để làm tốt việc cho vay, họ phải am hiểu KH, lĩnh vực KH kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống, có khả năng dự báo các vấn đề liên quan tới người vay. Nếu không đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện thì rất dễ dẫn đến những sai sót: như về mặt pháp lí hồ sơ, định giá tài sản không hợp lí…gây ra rủi ro TD.
Bên cạnh đó có một bộ phận cán bộ NH tư cách đạo đức kém, lợi dụng vị trí công tác để trục lợi, tham ô, nhận hối lộ, tiếp tay cho khách hàng rút ruột NH, cố tình cho vay sai nguyên tắc như dễ dàng cho vay với bạn bè, người thân…
- Do các cơ chế chính sách của NH
Chính sách TD phản ánh cương lĩnh tài trợ của một NH, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ TD và nhân viên NH, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích TD, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động TD nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Bởi vậy, nếu một chính sách TD không đầy đủ rõ ràng và thống nhất thì dễ dẫn đến việc cấp các khoản TD chất lượng thấp, thiếu hiệu quả do khách hàng lợi dụng những khe hở trong quản lí. Nếu chính sách TD chậm thay đổi hoặc thay đổi liên tục sẽ gây khó khăn cho công tác thẩm định.
Bên cạnh đó hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa được các NH quan tâm và đầu tư đúng mức, chất lượng thông tin thấp, sự hợp tác giữa các NH chưa đồng bộ cũng làm tăng rủi ro TD cho NH.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh Rủi ro Tín dụng
Mặc dù rủi ro TD là khách quan song NH phải quản lí rủi ro TD nhằm hạn chế ở mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nảy sinh rủi ro TD đã nêu ở trên, NH cụ thể hoá thành những chỉ tiêu phản ánh rủi ro, đó là:
1.2.3.1. Phân chia các khoản nợ
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được nợ khi đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng TD. Khi một món nợ không trả được vào kì hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
Theo quy định hiện nay thì tỷ lệ nợ quá hạn có thể chấp nhận được là từ 2% - 3%
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ: nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn kèm theo một số tiêu chí khác như quá một kì gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản đảm bảo không bán được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản…Nợ khó đòi là cảnh báo cho NH rằng hy vọng thu hồi vốn đang trở nên mong manh, NH cần có các biện pháp để giải quyết.
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ: nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5 theo quyết định 493/2005 và quyết định 18/2007 của NHNN về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Cũng theo quy định này thì tỷ lệ nợ xấu chiếm từ 2% - 5% là chấp nhận được.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu khác
- Các khoản cho vay có vấn đề:
Là các khoản cho vay không thu hồi được hoặc có dấu hiệu không thu hồi được theo đúng cam kết trong hợp đồng TD. Khoản vay có vấn đề được xây dựng trên quy định của ngân hàng, nó bao gồm những khoản vay trong hạn, nợ gia hạn nhưng có dấu hiệu không an toàn có thể dẫn tới rủi ro; nợ thanh toán không đúng kì hạn, đã quá hạn thanh toán (nợ quá hạn thông thường, nợ khó đòi, nợ chờ xử lí, nợ khoanh, nợ tồn đọng)
- Điểm của khách hàng.
Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng… NH lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Ví dụ: Khách hàng loại A hoặc điểm cao, rủi ro tín dụng thấp, khách hàng loại C hoặc điểm thấp, rủi ro cao. Chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà NH xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy các rủi ro tiềm ẩn.
- Mức độ đa dạng của TD
Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi. Nếu NH tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một ngành hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hoá.
- Mất ổn định vĩ mô.
Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do vậy đây cũng được coi là một nội dung phản ánh rủi ro TD.
1.2.4. Nhóm các dấu hiệu cảnh báo rủi ro tín dụng
* Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với khách hàng
- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng các tài khoản của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho NH một số dấu hiệu quan trọng như: khó khăn trong thanh toán lương, sự giao động của các tài khoản mà đặc biệt là số dư tài khoản tiền gửi, thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau, cắt giảm chi phi, gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán khi đến hạn.
- Các hoạt động cho vay: mức độ vay thường xuyên gia tăng, thanh toán chậm các khoản nợ và yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Phương thức tài chính: sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động dài hạn, chấp nhận các khoản tài trợ đắt, các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu, có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lí của khách hàng
- Thường xuyên có sự thay đổi trong ban quản trị hoặc ban điều hành.
- Quản lí có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng đối với những người không thuộc gia đình, cho thành viên của gia đình chưa được đào tạo đầy đủ, đảm đương các chức vị then chốt.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lí và có chi phí quản lí bất hợp lí như tập trung quá mức chi phí cho thiết bị văn phòng, phương tiện giao thông; ban giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa kinh doanh và tài chính cá nhân.
*Nhóm dấu hiệu có liên quan đến các vấn đề kĩ thuật thương mại
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm.
- Những thay đổi trên thị trường như tỷ giá, lãi suất… hay sự thay đổi từ những chính sách của NN như chính sách thuế, điều kiện thành lập và hoạt động.
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
* Nhóm các dấu hiệu về xử lí thông tin tài chính, kế toán của khách hàng
- Chuẩn bị không đầy đủ hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính.
- Những kết luận về phân tích cho thấy: sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên, khả năng tiền mặt giảm, các tài khoản hạch toán không khớp, hoạt động lỗ, không hạch toán đúng tài sản cố định, lệ thuộc vào các sản phẩm bất thường để tạo lợi nhuận…
- Những dấu hiệu phi tài chính: vấn đề đạo đức của nhà kinh doanh, nơi lưu trữ hàng hoá hư hỏng lạc hậu.
Những dấu hiệu trên có thể biểu hiên rõ nét hoặc không rõ lắm, tuy nhiên NH vẫn phải luôn xem xét chúng một cách cẩn thận để nhận biết và có hành động kịp thời nhằm ngăn ngừa hoặc xử lí chúng, tránh để xảy ra rủi ro TD.
1.2.5. Ảnh hưởng của Rủi ro TD đối với NH thương mại
- Làm giảm lợi nhuận của NH
Khi xảy ra rủi ro TD, trước tiên nó sẽ gây ra cho NH các khoản nợ khó thu hồi, vốn không thu hồi được, lãi không thể thu. Trong khi đó, việc có quá nhiều các khoản nợ khó đòi sẽ phát sinh thêm chi phí giám sát và thu nợ… cùng với chi phí các khoản tiền huy động vẫn phải trả, dẫn đến thu nhập của NH giảm sút.
- Làm giảm khả năng thanh toán và uy tín của tín của NH
Khi các khoản cho vay không thu về được như kế hoạch sẽ gây ra sự khó khăn cho NH trong việc thanh toán các khoản tiền gửi của khách hàng. Nếu các khoản nợ khó đòi này là không thể thu hồi thì NH có thể lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nếu NH không kịp thời đi vay hoặc bán tài sản của mình để chi trả.
Tình trạng mất khả năng chi trả nếu tái diễn nhiều lần, tỷ lệ nợ quá hạn cao, chất lượng TD thấp, hiệu quả hoạt động của NH thấp thông tin truyền ra bên ngoài thì tầm ảnh hưởng của nó không chỉ trong nội bộ NH nữa mà lan rộng trong dân chúng, khiến người dân mất lòng tin vào NH, uy tín của NH trên thị trường sẽ bị giảm sút.
- Dẫn đến sự sụp đổ của NH
Thu nhập giảm sút, mất khả năng thanh toán, uy tín giảm, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận và thị giá cổ phiếu trên thị trường của NH giảm. Việc này nếu không được chấn chỉnh kịp thời sẽ kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu cho việc mua lại, sáp nhập hoặc thay thế ban quản lí NH.
Không những thế, khi rủi ro TD xảy ra có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc hàng loạt người đi rút tiền ra khỏi NH, buộc NH phải đóng cửa và tuyên bố phá sản. Khác với các ngành kinh tế khác, khủng hoảng NH có tính dây truyền, một NH phá sản kéo theo sự phá sản hàng loạt của các NH và cuối cùng là gây nên cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cho cả nền kinh tế.
1.3. Quản lí Rủi ro tín dụng
Rủi ro TD xảy ra dù ở mức độ nào cũng gây tổn thất và sự phát triển của NH. Ở hầu hết các NH trên thế giới, nguyên nhân chủ yếu của các vụ đổ vỡ đều liên quan trực tiếp đến việc buông lỏng các tiê