Chuyên đề Tiềm năng và vai trò của định mức tín nhiệm đối với ngân hàng thương mại Việt Nam

Với nền kinh tế Việt Nam đang phát triển như hiện nay, sự tồn tại và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp “mạnh”–“yếu” khác nhau đã buộc các doanh nghiệp phải thực sự biết mình là ai, đứng ở vị trí nào và phải hiểu về đối thủ cạnh tranh của mình. Vậy, ai sẽ “bắt mạch” các doanh nghiệp này để đưa ra thông tin trung thực, khách quan, góp phần trợ giúp cho hoạt động thương mại, hợp tác và đầu tư? Lúc này, sự ra đời của một tổ chức có thể đánh giá được khả năng hoạt động và độ tin cậy của một doanh nghiệp là rất cần thiết. Và đó cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm của các tổ chức Định mức tín nhiệm (ĐMTN). Ở Việt Nam từ trước đến nay, ngoài cơ quan Nhà nước, ít có một tổ chức nào “dám” đánh giá uy tín của một doanh nghiệp. Đó là một thói quen bao cấp làm ảnh hưởng không ít đến bộ mặt của nền kinh tế đất nước, là một trong những lý do khiến các nhà đầu tư nước ngoài chưa dám đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam. Tất nhiên, khi luồng vốn chạy vào trong nước ít, với thị trường vốn nội địa còn non yếu thì hoạt động của các NHTM ở Việt Nam cũng khó lòng mà phát huy hết năng lực của nó để phát triển mạnh mẽ và ổn định. Như vậy, tổ chức ĐMTN ra đời sẽ thúc đẩy cho sự lưu thông và phát triển của thị trường vốn, giúp các NHTM hoạt động tốt hơn, huy động được vốn và cho vay một cách hiệu quả nhất. Tóm lại, việc cung cấp những thông tin tín dụng, xếp hạng và đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp là một công việc hết sức cần thiết. Nó gắn liền với mọi mặt hoạt động của nền kinh tế, tài chính và xã hội, giúp xây dựng hình ảnh và độ tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập. Chính vì thế nên khi thực hiện chuyên đề này, em đã chọn đề tài:“Tiềm năng và vai trò của Định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam”. Hi vọng qua chuyên đề có thể mang đến cho quí thầy cô và các bạn có được một cái nhìn chung về ĐMTN. Từ đó để thấy được những tiềm năng và vị trí của ĐMTN trong nền kinh tế khi đất nước ta chuẩn bị bước vào một giai đoạn mới: Hội nhập và phát triển.

doc33 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tiềm năng và vai trò của định mức tín nhiệm đối với ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU I/ Lý do chọn đề tài: Với nền kinh tế Việt Nam đang phát triển như hiện nay, sự tồn tại và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp “mạnh”–“yếu” khác nhau đã buộc các doanh nghiệp phải thực sự biết mình là ai, đứng ở vị trí nào và phải hiểu về đối thủ cạnh tranh của mình. Vậy, ai sẽ “bắt mạch” các doanh nghiệp này để đưa ra thông tin trung thực, khách quan, góp phần trợ giúp cho hoạt động thương mại, hợp tác và đầu tư? Lúc này, sự ra đời của một tổ chức có thể đánh giá được khả năng hoạt động và độ tin cậy của một doanh nghiệp là rất cần thiết. Và đó cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm của các tổ chức Định mức tín nhiệm (ĐMTN). Ở Việt Nam từ trước đến nay, ngoài cơ quan Nhà nước, ít có một tổ chức nào “dám” đánh giá uy tín của một doanh nghiệp. Đó là một thói quen bao cấp làm ảnh hưởng không ít đến bộ mặt của nền kinh tế đất nước, là một trong những lý do khiến các nhà đầu tư nước ngoài chưa dám đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam. Tất nhiên, khi luồng vốn chạy vào trong nước ít, với thị trường vốn nội địa còn non yếu thì hoạt động của các NHTM ở Việt Nam cũng khó lòng mà phát huy hết năng lực của nó để phát triển mạnh mẽ và ổn định. Như vậy, tổ chức ĐMTN ra đời sẽ thúc đẩy cho sự lưu thông và phát triển của thị trường vốn, giúp các NHTM hoạt động tốt hơn, huy động được vốn và cho vay một cách hiệu quả nhất. Tóm lại, việc cung cấp những thông tin tín dụng, xếp hạng và đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp là một công việc hết sức cần thiết. Nó gắn liền với mọi mặt hoạt động của nền kinh tế, tài chính và xã hội, giúp xây dựng hình ảnh và độ tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập. Chính vì thế nên khi thực hiện chuyên đề này, em đã chọn đề tài:“Tiềm năng và vai trò của Định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam”. Hi vọng qua chuyên đề có thể mang đến cho quí thầy cô và các bạn có được một cái nhìn chung về ĐMTN. Từ đó để thấy được những tiềm năng và vị trí của ĐMTN trong nền kinh tế khi đất nước ta chuẩn bị bước vào một giai đoạn mới: Hội nhập và phát triển. II/ Mục tiêu nghiên cứu: Từ việc nhìn thấy được sự cần thiết của ĐMTN trong nền kinh tế, chuyên đề sẽ giới thiệu một cách khái quát những vấn đề liên quan về ĐMTN và các hoạt động của nó ở Việt Nam như thế nào khi chỉ vừa mới được hình thành gần đây. Bên cạnh đó, chuyên đề còn cho chúng ta thấy bức tranh tổng quan về hoạt động của NHTM ỏ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, các mối quan hệ giữa NHTM và các tổ chức ĐMTN từ việc phân tích những tiềm năng và tầm quan trọng của ĐMTN trong nền kinh tế. Đặc biệt là vai trò của nó đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn những khó khăn đang tồn tại trong việc xây dựng các tổ chức ĐMTN ở Việt Nam, từ đó đề ra một số giải pháp cho sự hình thành và phát triển của loại hình này trong giai đoạn hiện nay. III/ Phương pháp nghiên cứu: 1/ Phương pháp thu thập số liệu: Các số liệu thứ cấp được thu thập từ sách, báo, các tạp chí ngân hàng, tạp chí kinh tế và qua internet... 2/ Phương pháp phân tích và xử lý số liệu: Bằng nhận định riêng của bản thân, dựa vào những kiến thức đã học kết hợp với các phương pháp phân tích số liệu từ thống kê ứng dụng, phương pháp so sánh và các phép toán thông thường để tổng hợp, giải thích và nhận xét các vấn đề. IV/ Phạm vi nghiên cứu: Tác động của ĐMTN đối với nền kinh tế là rất lớn và sâu rộng, trên nhiều mặt khác nhau. Tuy nhiên, trong chuyên đề này em chỉ tập trung phân tích vào khía cạnh là vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của hệ thống NHTM ở Việt Nam. Bên cạnh đó, việc đánh giá và phân tích hoạt động của hệ thống NHTM ở Việt Nam cũng chỉ được dựa trên việc tổng hợp các số liệu của một số ngân hàng tiêu biểu từ nền kinh tế trong khoảng thời gian từ năm 2000 trở lại đây. Tuy nhiên, qua đó cũng sẽ giúp cho người đọc có một cái nhìn cụ thể hơn về tình hình hoạt động của NHTM Việt Nam trong thời gian qua cũng như vai trò của ĐMTN đối với nó. PHẦN NỘI DUNG I/ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM (ĐMTN) 1/ Một số khái niệm 1.1/ Định mức tín nhiệm ĐMTN được dùng để đo lường mức độ rủi ro gắn liền với một khoảng đầu tư nào đó. ĐMTN là việc đánh giá về khả năng của một đơn vị phát hành trong việc thực hiện thanh toán đúng hạn một nghĩa vụ tài chính. Nghĩa vụ tài chính gồm trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu, các khoảng nợ và các khoảng tiền vay ngân hàng (NH). Có nhiều loại ĐMTN khác nhau. ĐMTN đợt phát hành trái phiếu và ĐMTN của đơn vị phát hành. Thông thường, người ta quan tâm nhiều đến đợt phát hành vì nó không chỉ tính tới độ tín nhiệm của đơn vị phát hành mà còn tính tới độ tín nhiệm của những tài sản thế chấp. Ngoài ra còn có ĐMTN trong nước hay toàn cầu. Các tổ chức ĐMTN trong nước sẽ ĐMTN các doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, các tổ chức ĐMTN quốc tế sẽ định mức những đơn vị phát hành trên toàn cầu phục vụ cho các nhà đầu tư lớn. 1.2/ Tín nhiệm doanh nghiệp (DN) Tín nhiệm DN là ý kiến được đưa ra bởi một tổ chức ĐMTN về khả năng của DN trong việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính. Ý kiến này tập trung vào việc đánh giá khả năng và mong muốn của DN trong việc thực hiện cam kết tài chính khi chúng tới hạn. Ý kiến này không nhằm cung cấp đảm bảo khả năng trả nợ của DN được xếp hạng với bất cứ một nghĩa vụ tài chính cụ thể nào. Tín nhiệm DN có thể tăng hoặc giảm theo khả năng mà DN có đáp ứng được nghĩa vụ tài chính của mình hay không. 2/ Công ty ĐMTN (CRA) 2.1/ Khái niệm Công ty ĐMTN hay một tổ chức ĐMTN (còn được gọi là CRA) là công ty chuyên cung cấp quan điểm của họ về độ tín thác của một DN trong nghĩa vụ thanh toán tài chính. CRA là một tổ chức đánh giá trung gian, độc lập nhằm xem xét, phân tích và đưa ra mức định hạng tín nhiệm đối với các công ty đang tìm kiếm nguồn vốn đầu tư. Nó cung cấp ý kiến về mức độ tin cậy của một thể nhân cũng như khả năng hoàn thành những nghĩa vụ tài chính của thể nhân đó. Sản phẩm của CRA là việc cung cấp cho thị trường một hệ thống xếp hạng các công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ,… Giúp các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo và so sánh trước khi đưa ra quyết định nên đầu tư vào những công cụ nào. Ngoài ra còn có những dịch vụ khác của CRA như đánh giá các tổ chức tài chính, bảo hiểm, tính toán mức rủi ro tín dụng một khoảng cho vay của NH, đánh giá xếp hạng quản trị DN, cung cấp thông tin tài chính,... 2.2/ Sự khác biệt giữa một CRA và một số tổ chức khác như tư vấn tài chính, dịch vụ thông tin, các công ty kiểm toán, ISO,… Thực chất, chức năng của các loại hình dịch vụ này là như nhau vì chúng đều nhằm hướng đến việc phân tích, đánh giá để đưa ra các thông tin tư vấn kịp thời cho các DN. Tuy nhiên, khi tiến hành đánh giá một DN, ngoài việc phân tích theo góc độ tài chính như các tổ chức khác, CRA còn quan tâm đến các chỉ tiêu phi tài chính. Các chỉ tiêu phi tài chính đó là năng lực cạnh tranh của DN, triển vọng phát triển của sản phẩm, xu hướng thị trường, ý kiến và phản ứng của người tiêu dùng về các sản phẩm và dịch vụ của DN,… Kết quả đánh giá sẽ là sự kết hợp giữa kết quả phân tích các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính có tính khác biệt về nghành và qui mô. 2.3/ Các mô hình của CRA Trên thế giới, hiện có ba loại mô hình CRA: ● Thứ nhất: Mô hình CRA 100% vốn nước ngoài. Đây là loại hình do các CRA nước ngoài thành lập và hoạt động dưới dạng mở chi nhánh tại nước sở tại hoặc đăng ký thành lập công ty. Mô hình này thường chỉ có một pháp nhân đứng ra thành lập hoặc có hai pháp nhân nước ngoài. Để mô hình này có thể đi vào hoạt động đòi hỏi phải có một thị trường trái phiếu phát triển nhất định và có sự đầu tư lớn từ trong nước cũng như quốc tế. ● Thứ hai: Mô hình công ty liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài. Mô hình này do các CRA nội địa và CRA nước ngoài cùng thiết lập liên doanh để khai thác một số dịch vụ của ĐMTN. Để xây dựng mô hình thì đối tác trong nước phải là một tổ chức tài chính hoặc một DN đã rất am hiểu về hoạt động của CRA mới phát huy được vai trò của nó và tránh không bị đối tác nước ngoài chi phối. ● Thứ ba: Mô hình công ty cổ phần có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước ngoài. Với mô hình loại này thì CRA đóng vai trò là một công ty cổ phần, trong đó ngoài các cổ đông trong nước còn có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước ngoài. Họ là những nhà đầu tư lớn, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân sự và cử người điều hành DN. Trong mô hình này không có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông trong nước và nước ngoài về tỷ lệ sở hữu. Nguyên tắc phân bổ tỷ lệ sở hữu là tùy thuộc vào vai trò của từng nhà đầu tư trong việc hình thành sự ra đời và hoạt động của CRA. 3/ Các hình thức của ĐMTN Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hoạt động của các tổ chức ĐMTN rất đa dạng với nhiều hình thức và dịch vụ khác nhau. Về cơ bản, có ba loại hình dịch vụ chính: 3.1/ Cung cấp thông tin tín nhiệm DN ● Thông tin tín nhiệm DN: Thông tin tín nhiệm là những thông tin ngắn gọn, chính xác được kiểm chứng bởi một tổ chức ĐMTN có uy tín. Thông tin tín nhiệm nhằm đánh giá khả năng thanh toán, mức độ tín nhiệm của một cá nhân, một DN, một nghành hoặc một quốc gia. Thông tin tín nhiệm DN giúp các nhà quản lý ra quyết định nhanh hơn và chính xác hơn nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh. ● Cung cấp thông tin tín nhiệm DN: Đây là một dịch vụ mà các CRA có nghĩa vụ sẽ thường xuyên ĐMTN các công ty có yêu cầu được định mức xếp hạng nhằm phục vụ cho nhà đầu tư của công ty. Trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng, CRA sẽ luôn cập nhật thông tin, theo sát các công ty và nghành những sự kiện có ý nghĩa hoặc những sự phát triển có ảnh hưởng tới kết quả định mức nhằm đảm bảo quá trình ĐMTN một cách chính xác. Ít nhất một năm một lần, CRA sẽ đánh giá lại mỗi công ty. Bất cứ lúc nào trong suốt quá trình giám sát, CRA cũng có thể ban hành hai loại công bố: Cảnh bảo tín nhiệm: Là lời cảnh báo cho công chúng rằng, đã xảy ra một sự kiện gì đó hoặc là về điều kiện kinh doanh hoặc là một sự kiện trong công ty mà có thể ảnh hưởng đến ĐMTN. Cảnh báo tín nhiệm có nghĩa là CRA sẽ đánh giá các sự kiện và các sự kiện này có thể được cho rằng “tích cực”, “tiêu cực”, hoặc “đang phát triển” phụ thuộc vào các tình huống cụ thể. ĐMTN hiện thời vẫn còn hiệu lực cho đến khi CRA hoàn thành đánh giá đầy đủ. Cập nhật tín nhiệm: Là việc xem xét lại ĐMTN đã ban hành trước đó. Bản mới được công bố sau khi CRA đánh giá được ảnh hưởng của một sự kiện có ý nghĩa và nó bao gồm những thông tin bổ sung cho ĐMTN đã công bố trước đó. Cập nhật ĐMTN và công bố ĐMTN sẽ “thăng hạng”, “xuống hạng” hoặc bị hủy bỏ. 3.2/ Đánh giá tín nhiệm và xếp hạng DN Đây là một trong những dịch vụ chính của loại hình kinh doanh tín nhiệm DN. Đánh giá tín nhiệm là một dịch vụ rất phổ biến trên thế giới. Ở hầu hết các nước phát triển và nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. Đây là một dịch vụ hết sức cần thiết đối với nền kinh tế thị trường, đặc biệt là đối với các NH. Đánh giá tín nhiệm hay xếp hạng tín nhiệm DN là việc đánh giá khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ của một công ty, hay đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau. Các loại đầu tư này có thể dưới dạng các công cụ cho vay như vay và gửi tiền tại NH, hay có thể dưới dạng các chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu, thương phiếu… Xếp hạng DN là một phần của quá trình cung cấp thông tin tín nhiệm DN thong qua các khâu thu thập, sàng lọc, chia nhóm, phân tích, đánh giá, so sánh và cho điểm các thong tin tín nhiệm để xếp hạng các DN theo các cấp độ khác nhau. Mục đích của việc xếp hạng DN là đưa ra ý kiến về khả năng thực hiện một nghĩa vụ tài chính của DN vì các DN thường sử dụng vốn kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau, từ các nhà đầu tư, các NH hay từ nguồn vốn của các nhà cung cấp. Vì vậy mà nó rất cần thiết cho nền kinh tế, đặc biệt là đối với hoạt động của NH. Khi tham gia đánh giá tín nhiệm, DN sẽ được nhận những thông tin đánh giá độc lập, khách quan về tình hình tài chính, khả năng thanh toán nợ. Mặt khác, các DN còn nhận được dich vụ tư vấn tài chính, quản lý, quan hệ công chúng (PR),…Tuy nhiên, để có thể đánh giá tín nhiệm của một DN, các CRA phải dựa trên hai chỉ tiêu là tài chính và phi tài chính. Có hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các phương pháp kiểm tra chéo phức tạp để có thể đưa tới việc xếp hạng từ AAA, AA, BB,… cho mức độ tín nhiệm của DN. Chỉ tiêu tài chính bao gồm các con số về vốn, vòng vay, khả năng thanh toán, tín dụng, thua lỗ, các chỉ số tài chính,… Các chỉ tiêu phi tài chính bao gồm những thông tin liên quan tới giám đốc, ISO, thương hiệu hoặc nhân sự, những tai tiếng, uy tín trên thương trường,… Những chỉ tiêu tài chính sẽ được lượng hóa, còn những chỉ tiêu phi tài chính sẽ qua sự đánh giá bởi các chuyên gia trong ngành. 4. Tiêu chuẩn của một tổ chức ĐMTN Các tiêu chí tối thiểu của một CRA cần phải đạt được gồm: Khách quan, độc lập, minh bạch, công khai và chuyên nghiệp. Những tiêu chuẩn này do NH Thanh toán quốc tế đề ra và đã được các nhà đầu tư trên thế giới thừa nhận. Điều cần lưu ý ở đây là, tuy nhiệm vụ chính của các CRA là đánh giá mức độ tín nhiệm của các DN, nhưng khách hàng chủ chốt của các CRA là các nhà đầu tư chứ không phải các DN hay các nhà phát hành mặc dù họ là người trả phí dịch vụ ĐMTN. Vì vậy mà yêu cầu đối với tổ chức này là khá khắt khe. Đó phải là một tổ chức hoạt động với tư cách độc lập. Độc lập là mình không chịu sức ép của bất cứ quyền lực nào, không chịu sự chi phối trong các qui định được đưa ra bởi bất cứ một cơ quan nào, không xung đột hay có mối quan hệ lợi ích với các tổ chức được ĐMTN. Có như vậy các đánh giá tín nhiệm mới mang tính khách quan và đáng tin cậy. Đó cũng là nhu cầu tồn tại của bản thân các CRA. Ngoải ra, các CRA phải có một đội ngũ chuyên gia thực sự giỏi cùng với việc xây dựng một qui trình đánh giá khoa học, khách quan và chính xác, phù hợp với từng điều kiện của mỗi nền kinh tế. Kết quả xếp hạng phải được thực hiện bởi một đội ngũ chuyên gia về các lĩnh vực tài chính và phi tài chính. Từ việc thu thập thông tin đến việc kiểm tra, thẩm định phải được tiến hành một cách đầy đủ, chính xác và được đánh giá theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Tóm lại, điều kiện để một tổ chức ĐMTN hoạt động thành công là được tin cậy, độc lập, không thiên vị, có năng lực về kỹ thuật - nhân lực, đầy đủ về cả số lượng lẫn chất lượng, tiếp cận được với những thông tin đáng tin cậy về tổ chức được định mức và tạo dựng được hình ảnh của mình trong cộng đồng DN. 5/ Hoạt động của ĐMTN ở Việt Nam Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hầu hết các nước phát triển và trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên tại VN, khái niệm trên vẫn còn rất mới mẻ và loại hình kinh doanh này mới chỉ ở bước khởi đầu. Từ năm 1996, một nhóm các cán bộ chuyên nghiệp từng  công tác trong các cơ quan thông tin tín dụng, dự án đánh giá tín nhiệm của Nhà nước đã tập hợp nhau lại và hoạt động thông tin tín nhiệm. 5 năm sau, Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam chính thức thành lập đầu năm 2001 tại Hà Nội. Công ty tập trung vào ba mảng hoạt động chính là: Thông tin tín nhiệm, tư vấn luật và dịch vụ đại diện cho các hãng của nước ngoài. Sau 4 năm hoạt động, năm 2004 Công ty C&R (Credit and Ratings) chính thức được tách riêng, đánh dấu một bước phát triển lớn của Giải Pháp Việt Nam. C&R chỉ tập trung vào hoạt động trong lĩnh vực Thông tin tín nhiệm và xếp hạng DN. Công ty được tổ chức dưới hính thức các nhóm hạt nhân làm việc độc lập, sáng tạo và linh hoạt. Bên cạnh đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, công ty còn có một mạng lưới cộng tác viên, và các đại diện trên khắp đất nước. Sự tích cóp liên tục và bền bỉ những thông tin nhỏ nhất đã đem đến cho C&R một kho dữ liệu đồ sộ và chính xác về hoạt động của các DN Việt Nam. Công ty thường cung cấp thông tin tín nhiệm ở 3 dạng: Báo cáo cơ bản. Báo cáo chuẩn . Báo cáo tổng hợp chi tiết. Hiện nay, hoạt động của C&R cũng đã được mở rộng thông qua cổng thông tin của trang web “Doanh nhân Việt Nam” (www.doanhnhanvietnam.com). Khi là thành viên của website này, các DN có quyền cung cấp thông tin về mình và cũng có quyền tiếp cận các thông tin tín nhiệm về các DN khác trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam và trên thế giới. Cho đến nay, VN mới có hai DN hoạt động trong lĩnh vực ĐMTN. Một là Công ty Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng DN (C&R) - được tách ra từ Công ty Giải pháp VN năm 2004. Hai là Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (Credit Ratings Vietnamnet Center - CRVC) thuộc công ty phần mềm truyền thông VASC, vừa đi vào hoạt động trong gần một năm qua. (Bắt đầu hoạt động chính thức từ ngày 4/6/2005). Những dịch vụ chủ yếu của C&R là cung cấp thông tin tín nhiệm, xếp hạng tín nhiệm DN và điều tra thị trường theo ngành kinh tế. Trong khi đó, dù mới ra đời, CRVC cũng đã cung cấp khá nhiều dịch vụ đa dạng liên quan đến loại hình ĐMTN. CRVC sẽ là tổ chức chuyên cung cấp cho DN các dịch vụ thu thập thông tin; đánh giá xếp hạng; ĐMTN các tổ chức tài chính; xếp hạng DN. Đồng thời, đơn vị này cũng nhận tư vấn, hỗ trợ DN trong việc tạo dựng uy tín trên thị trường, xây dựng thương hiệu có sức cạnh tranh; thẩm định lại các thông tin; xây dựng cơ sở dữ liệu về các DN, doanh nhân, từ đó phát triển dịch vụ tư vấn tài chính, môi giới đầu tư... Đối tượng phục vụ chính của C&R và CRVC là các nhà đầu tư, các DN hay hệ thống các NH trong nước và quốc tế. Trong quá trình xây dựng các chỉ tiêu, cả C&R và CRV đều tham khảo đánh giá của các tổ chức định giá tín nhiệm lớn nhất trên thế giới là Standard & Poor's, Moody's và Equifax… và xây dựng được hệ thống đánh giá riêng, phù hợp với điều kiện của VN. Theo đó, hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các phương pháp kiểm tra chéo phức tạp để có thể đưa tới việc xếp hạng từ AAA, AA, BB... cho mức độ tín nhiệm của DN. Sau một thời gian hoạt động, dù số lượng không nhiều nhưng những hợp đồng mà C&R nhận được cũng cho thấy các DNVN cũng bắt đầu có sự quan tâm tới lĩnh vực này. Tính đến nay, C&R đã cung cấp rất nhiều báo cáo tín nhiệm cho các DN trong và ngoài nước. Còn CRV dù chỉ mới thành lập chưa được một năm nhưng cho đến nay cũng đã nhận được rất nhiều hợp đồng yêu cầu cung cấp thông tin đánh giá tín nhiệm của các khách hàng khắp cả nước. II/ TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐMTN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM 1/ Tổng quan về hoạt động của NHTM Việt Nam Qua gần 15 năm hình thành và chuyển đổi từ tập trung bao cấp sang kinh doanh thị trường, hệ thống NHTM Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới nhưng cho đến nay, thực trạng về hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn có rất nhiều bất cập và hạn chế, gây khó khăn cho việc phát triển của hệ thống NHTM nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. 1.1/ Về khả năng huy động vốn Trong vài năm trở lại đây, cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, nhu cầu về vốn của nền kinh tế luôn ở mức cao đã buộc các NHTM phải tăng cường huy động vốn và tăng khối lượng tín dụng cho các DN. Tuy nhiên, sự có mặt của các NH nước ngoài với khả năng tài chính dồi dào, loại hình dịch vụ NH đa dạng, hiện đại dựa trên công nghệ cao đã buộc các NHTM Việt Nam phải quan tâm đầu tư hiện đại hóa nghiệp vụ NH, hệ thống hạ tầng kỹ thuật để cung cấp các dịch vụ NH hiện đại, tiện ích hơn. Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải tăng cường nguồn vốn tự có của chính bản thâm NH mới có thể đáp ứng các nhu cầu về đầu tư và mở rộng cho vay. Vì vậy, trước khi đề cập đến khả năng huy động vốn, chúng ta cần quan tâm đến tình hình vốn tự có của các NHTM Việt Nam vì nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NH – là loại hình DN kinh doanh tiền tệ nhằm thu hút vốn của các DN và dân cư. ■ Tình hình vốn tự có trong các NHTM Việt Nam: Tỷ trọng Vốn tự có/ Tổng tài sản là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ an toàn của một NH do Luật TCTD (12/97) điều 81 đã qui định. Theo thông lệ quốc tế, tỷ trọng này phải tối thiểu là 8%. Nhưng cho đến nay, các NHTM Việt Nam mới chỉ đạt cao nhất gần 5%. Bảng 1: Tỷ
Tài liệu liên quan