Cổ phần hóa (CPH), thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là xu hướng không thể đảo ngược trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hiện DNNN đang bị đánh giá là quản trị yếu kém và hiệu quả thấp. Bên cạnh mục
tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước có hiệu quả, việc CPH, thoái vốn nhà nước còn nhắm đến
những mục tiêu quan trọng và dài hạn hơn là giúp nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, giữ gìn
thương hiệu, ngành nghề kinh doanh chính để từ đó tạo điều kiện cho phát triển bền vững của cả nền kinh
tế trong dài hạn. Để làm được điều này, một trong những điều kiện quan trọng là phải lựa chọn được nhà
đầu tư chiến lược đủ năng lực tài chính cũng như quản trị.
4 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 561 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cổ phần hóa, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước: Cần lựa chọn nhà đầu tư chiến lược tốt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 41Số 128 - tháng 6/2018
COÅ PHAÀN HOÙA, THOAÙI VOÁN TAÏI
dOANH NGHIEÄP NHAØ NÖÔÙC: CAÀN LÖÏA CHOÏN
NHAØ ÑAÀU TÖ CHIEÁN LÖÔÏC TOÁT
ThS. NGô TRÍ TRUNG*
*Khoa Quốc tế, Đại học QGHN
Cổ phần hóa (CPH), thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là xu hướng không thể đảo ngược trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hiện DNNN đang bị đánh giá là quản trị yếu kém và hiệu quả thấp. Bên cạnh mục
tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước có hiệu quả, việc CPH, thoái vốn nhà nước còn nhắm đến
những mục tiêu quan trọng và dài hạn hơn là giúp nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, giữ gìn
thương hiệu, ngành nghề kinh doanh chính để từ đó tạo điều kiện cho phát triển bền vững của cả nền kinh
tế trong dài hạn. Để làm được điều này, một trong những điều kiện quan trọng là phải lựa chọn được nhà
đầu tư chiến lược đủ năng lực tài chính cũng như quản trị.
Từ khóa: Cổ phần hóa, thoái vốn, nhà đầu tư chiến lược.
Equitization, divestment at state-owned enterprises: Need to choose good strategic investors
Equitization, the divestment of state-owned enterprises (SOEs) is an irreversible trend in the process
of building and developing a socialist-oriented market economy. SOEs are currently undergoing poor
governance and low efficiency. In addition to the objective of generating revenues for the state budget,
the equitization of state capital also aims at long-term and important objectives rather than enhancing the
capacity of corporate governance, preserving the brand name. , the main business line from which to create
conditions for the sustainable development of the whole economy in the long term. In order to do this, one
of the important conditions is to select strategic investors who are financially capable and well-managed.
key words: Equitization, divestment, strategic investors.
Cơ sở pháp lý và định hướng cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước
Trong thời gian vừa qua, quá trình CPH và thoái
vốn nhà nước đã đạt một số kết quả khá tích cực.
Mặc dù vậy, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng
quá trình CPH và thoái vốn nhà nước vẫn chưa đáp
ứng được tiến độ mà Chính phủ đã đề ra, trong đó
có không ít các trường hợp quá trình CPH, thoái
vốn bị trì hoãn nhiều lần
Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017
về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần đã
thể chế hóa chủ trương bằng quy định cụ thể. Nghị
quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị
lần thứ Năm Ban chấp hành TW Đảng Khóa XII
về việc tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả kinh doanh DNNN. Trên tinh thần đó, thời
gian vừa qua, Chính phủ đã liên tục có những chỉ
đạo nhất quán về việc thực hiện CPH, thoái vốn
nhà nước. Tại cuộc họp chuyên đề Kiểm toán nhà
nước về công tác tái cơ cấu lại khối DN mà trọng
tâm là DNNN, ngày 18/01/2017, Phó Thủ tướng
Vương Đình Huệ nhấn mạnh: “CPH không phải là
mục đích mà chỉ là phương tiện thực hiện mục tiêu
của Chính phủ. Mục đích cuối cùng là nâng cao
hiệu quả quản trị DN”.
Nghị quyết 12-NQ/TW định hướng giảm tỷ lệ
sở hữu nhà nước xuống mức đủ để công tác quản
trị được thay đổi một cách thực chất và có thể thu
hút được các nhà đầu tư có năng lực thực sự. Trong
Nghị quyết này, Đảng cũng đã nhận thức về tầm
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN42 Số 128 - tháng 6/2018
quan trọng của các cổ đông lớn, các nhà đầu tư
chiến lược và đã đặt vấn đề về hoàn thiện tiêu chí
cổ đông lớn, cổ đông chiến lược. Nghị định 126 đã
quy định phải đảm bảo việc nhà đầu tư chiến lược
cam kết hỗ trợ việc nâng cao năng lực quản trị của
doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ mới, đào tạo
nguồn nhân lực, nâng cao năng lực tài chính, cung
ứng nguyên vật liệu và phát triển thị trường tiêu
thụ sản phẩm.
Để quá trình CPH, thoái vốn nhà nước hỗ trợ
tốt hơn nữa cho mục tiêu cải thiện chất lượng quản
trị tại doanh nghiệp, thì trước hết cần phải nhận
thức được vai trò quan trọng của các nhà đầu tư
chiến lược và tạo môi trường để các nhà đầu tư này
tham gia tích cực hơn vào quá trình điều hành hoạt
động của doanh nghiệp. Hơn nữa, điều này chỉ
có thể phát huy tác dụng nếu Nhà nước lựa chọn
được các nhà đầu tư chiến lược có năng lực, công
nghệ và kinh nghiệm phù hợp với sứ mệnh thúc
đẩy doanh nghiệp phát triển. Đồng thời có cơ chế
cho phép nhà đầu tư chiến lược nắm giữ được một
lượng cổ phần đủ lớn để có thể tạo ra sự ảnh hưởng
có ý nghĩa tới hoạt động của doanh nghiệp.
Trên thực tế thì sự tham gia của nhà đầu tư tư
nhân vào khu vực DNNN còn rất hạn chế. Tính
đến hết năm 2017 tỷ lệ vốn nhà nước thực bán qua
CPH và thoái vốn chỉ chiếm khoảng 7,5% của tổng
số vốn nhà nước nắm giữ. Trong giai đoạn 2011 -
2016, trong số 426 doanh nghiệp, nhà đầu tư chiến
lược chỉ nắm giữ 7,3% vốn điều lệ của doanh nghiệp
cổ phần hóa. Điều này đã dẫn đến một thực tế đáng
quan ngại là việc tham gia vào Hội đồng quản trị
của nhà đầu tư chiến lược chỉ mang tính hình thức.
Các ý kiến, đề xuất cải thiện sản xuất, kinh doanh,
tiết kiệm chi phí của họ không được ghi nhận, bởi
cho dù được gọi là cổ đông chiến lược hay nhà đầu
tư chiến lược thì họ vẫn là cổ đông thiểu số. Chính
thực tế này đã hạn chế đáng kể những đóng góp
của họ để giúp nâng cao năng lực quản trị, nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Các yếu tố cần thiết để tìm kiếm và lựa chọn
nhà đầu tư chiến lược tốt
Một là, Duy trì ngành nghề kinh doanh chính của
DN sau khi CPH, bảo vệ thương hiệu Việt
Việc duy trì ngành nghề kinh doanh chính, giữ
gìn thương hiệu đã được luật hóa bằng quy định của
Nhà nước. Tại Nghị định 126 yêu cầu nhà đầu tư
chiến lược phải cam kết tiếp tục duy trì ngành nghề
kinh doanh chính và thương hiệu của doanh nghiệp
CPH trong thời gian ít nhất 03 năm kể từ thời điểm
chính thức trở thành nhà đầu tư chiến lược. Đối với
các doanh nghiệp đã nằm trong danh sách doanh
nghiệp đạt thương hiệu Quốc gia, cơ quan đại diện
chủ sở hữu báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết
định cụ thể thời gian nhà đầu tư chiến lược phải cam
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 43Số 128 - tháng 6/2018
kết tiếp tục duy trì ngành nghề kinh doanh chính và
thương hiệu của doanh nghiệp CPH.
Mặc dù chính sách đề ra như vậy, nhưng thực
tế triển khai vẫn chưa đạt kết quả, do thiếu vắng
những nguyên tắc lựa chọn nhà đầu tư có khả năng
đáp ứng được mục tiêu bảo vệ thương hiệu của
doanh nghiệp. Ví dụ như trường hợp CPH Hãng
phim truyện Việt Nam (VFS) - một thương hiệu
điện ảnh hàng đầu có tuổi đời gần 60 năm. Nhà đầu
tư chiến lược là Tổng Công ty vận tải thủy (Vivaso)
không hề có kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất
phim, và cũng không mặn mà phát triển mảng
sản xuất phim. Vụ thoái vốn DNNN này cũng đã
làm dấy lên dư luận về việc tính nhất quán của
quá trình thực hiện mục tiêu chính sách về bảo vệ
ngành nghề kinh doanh chính, bảo vệ thương hiệu
của doanh nghiệp CPH.
Nhà nước dựa vào những dấu hiệu nào để xác
định được các nhà đầu tư chiến lược ứng viên có khả
năng trong việc gìn giữ và phát triển các thương hiệu
nội địa. Nhà nước có thể dựa vào thông tin về truyền
thống, lịch sử phát triển thương hiệu địa phương của
nhà đầu tư trước đó để đánh giá và đoán định khả
năng họ sẽ ứng xử thế nào với các thương hiệu được
mua lại trong tương lai. Thực tế, một số nhà đầu tư
trân trọng và có kinh nghiệm tốt trong việc tiếp tục
nuôi dưỡng và phát triển các thương hiệu được mua
lại sau khi tiếp quản thương hiệu.
Hai là, Ngoài việc phát triển thương hiệu của
DN, chiến lược phát triển còn đưa sản phẩm vươn
ra thị trường quốc tế
Bên cạnh việc bảo vệ thương hiệu, để đạt được
mục tiêu đảm bảo phát triển doanh nghiệp một
cách bền vững sau cổ phần hóa, thoái vốn, cũng
cần đánh giá nhà đầu tư tiềm năng trên phương
diện liệu họ có phải là nhà quản lý tốt và có kế
hoạch đầu tư, phát triển phù hợp để đảm bảo sự
thành công của doanh nghiệp hay không, đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội
nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường quôc tế.
Để đảm bảo lựa chọn được đúng nhà đầu tư
phù hợp, Chính phủ cần thận trọng tìm hiểu, đánh
giá lịch sử hoạt động của nhà đầu tư tiềm năng để
phát hiện các tín hiệu không khả quan như chiến
lược quá chú trọng vào cắt giảm chi phí hơn là chất
lượng hoặc lịch sử thôn tính thương hiệu của nhà
đầu tư đó trong quá khứ.
Như vậy, trong quá trình CPH, thoái vốn, Nhà
nước hoàn toàn có thể căn cứ vào dữ liệu lịch sử,
thông tin về các giao dịch, kết quả phát triển kinh
doanh dựa trên thương hiệu nội địa trong quá khứ
của nhà đầu tư để có thể ra quyết định lựa chọn
đối tác. Một trong những chỉ số đơn giản nhất mà
Nhà nước có thể yêu cầu nhà đầu tư cung cấp là tỷ
lệ doanh thu của công ty đến từ thương hiệu địa
phương họ đã mua lại. Việc chọn được nhà đầu tư
có chiến lược phát triển dựa trên thương hiệu địa
phương sẽ mang lại lợi ích lớn cho phát triển ngành
và kinh tế đất nước trong dài hạn.
Ba là, Cam kết, kinh nghiệm của nhà đầu tư đối
với thị trường địa phương
Kiến thức địa phương bao gồm các thông tin
rõ ràng hoặc ẩn ý và các kiến thức dựa trên kinh
nghiệm nhằm giúp cho nhà đầu tư chiến lược đối
phó với độ phức tạp của các nền văn hoá và hệ
thống kinh tế xã hội khác nhau.
Trong điều kiện Việt Nam, tiêu chí lựa chọn nhà
đầu tư có kinh nghiệm với thị trường địa phương
nên được xem xét kỹ lưỡng hơn nhằm đạt được
mục tiêu nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà
nước, tiết kiệm chi phí xã hội, hướng đến phát triển
doanh nghiệp một cách bền vững. Một đối tác đã
làm việc lâu năm tại Việt Nam sẽ có am hiểu kiến
thức và kinh nghiệm địa phương đáng kể, do vậy,
họ sẽ không mất thêm thời gian và chi phí kinh
doanh để có thể nhanh chóng tập trung vào việc
cải tổ và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Bên
cạnh đó, nhà đầu tư này cũng sẽ có sự gắn kết hơn
đối với nhu cầu của thị trường trong nước, kinh
nghiệm làm việc với các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như có sự am hiểu về thị trường lao động địa
phương, văn hoá kinh doanh.
Nhà đầu tư chiến lược có nhiều gắn kết tại Việt
Nam sẽ ở lại với doanh nghiệp dài hơi hơn, đi cùng
quá trình phát triển của DN trong và sau thời gian
cổ phần hoá. Các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực
cũng thường am hiểu thị trường địa phương hơn
nên sẽ biết cách dùng thế mạnh của mình về công
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN44 Số 128 - tháng 6/2018
nghệ, thị trường để làm cho sự phát triển của ngành
tốt lên. Việc có kinh nghiệm tại Việt Nam cũng sẽ
dẫn tới việc các tiêu chí mà DNNN đưa ra mang tính
dài hơi cho sự phát triển của công ty thì phía đối tác
nước ngoài có thể đáp ứng dễ dàng hơn.
Về mặt tư duy thị trường, việc lựa chọn một nhà
đầu tư có kinh nghiệm tại Việt Nam so với một nhà
đầu tư ít có kinh nghiệm với thị trường Việt Nam
hơn là có cơ sở và giúp Nhà nước sớm đạt mục tiêu
ổn định và phát triển doanh nghiệp cổ phần hóa.
Bốn là, Trách nhiệm xã hội và đóng góp của
doanh nghiệp đối với nền kinh tế trong dài hạn
Việc yêu cầu về trách nhiệm xã hội và tiềm năng
đóng góp của nhà đầu tư và doanh nghiệp sau khi
cổ phần hóa trong dài hạn cũng rất cần thiết. Các
yếu tố này đã đóng góp quan trọng đối với danh
tiếng và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Nhân tố chủ chốt của trách nhiệm xã hội bao
gồm chính các hoạt động kinh doanh - chức năng
của doanh nghiệp trong xã hội là mang lại lợi
nhuận cho chủ sở hữu vốn bằng cách xác định và
phát triển các cơ hội đầu tư hứa hẹn, và trong quá
trình đó, tạo ra việc làm và sản xuất hàng hóa, dịch
vụ mà người tiêu dùng muốn mua. Nhiều người
còn hiểu phiến diện trách nhiệm xã hội chỉ bao
gồm các hoạt động hướng tới cộng đồng như hoạt
động thiện nguyện, đầu tư xã hội, tài trợ xây dựng
cơ sở hạ tầng xã hội. Tuy nhiên, cần phải hiểu trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp rộng hơn, bắt đầu
từ chính những hành động trong hoạt động kinh
doanh thường xuyên của doanh nghiệp như: tuân
thủ pháp luật, đóng thuế, trách nhiệm với người lao
động, kiểm soát nguyên liệu và chất thải sản xuất,...
Để lựa chọn đạt được một trong những mục
tiêu quan trọng nhất của cổ phần hóa là nâng cao
năng lực quản trị đảm bảo sự phát triển bền vững
của doanh nghiệp, rõ ràng cần cân nhắc tới những
yếu tố nói trên khi thực hiện đánh giá các nhà đầu
tư chiến lược. Để có những đánh giá xem liệu nhà
đầu tư đó có phù hợp với mục tiêu cổ phần hóa,
thoái vốn Nhà nước hay không thì trước hết cần
đánh giá kỹ lưỡng những việc mà nhà đầu tư đó đã
làm trong quá khứ. Thông thường, những tập đoàn
đầu tư lớn đều có lịch sử hoạt động, lịch sử giao
dịch giúp chúng ta có được thông tin tốt hơn để
phục vụ cho đánh giá của mình. Như vậy, khi cân
nhắc lựa chọn nhà đầu tư cho quá trình cổ phần
hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, ngoài
yếu tố về mức giá, chúng ta hoàn toàn có thể có
những yêu cầu giúp đánh giá tốt hơn, kỹ lưỡng hơn
các yêu cầu nêu trên và đóng góp của doanh nghiệp
đối với nền kinh tế trong dài hạn, từ đó có thể ra
quyết định lựa chọn đúng đắn.
Thời gian qua có rất nhiều ý kiến cho rằng cứ
bán công ty cho nhà đầu tư ngoại là coi như mất.
Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện của một quốc
gia thì việc đánh giá cái được, cái mất cần phải thực
hiện một cách toàn diện. Trong quá trình cổ phần
hóa, thoái vốn nhà nước, việc lựa chọn nhà đầu tư
nội hay ngoại sẽ không thực sự quan trọng bằng việc
đánh giá, lựa chọn được nhà đầu tư với công nghệ
tiên tiến, kinh nghiệm với thị trường Việt Nam, có
cam kết gắn bó với thị trường Việt Nam trong dài
hạn, có chiến lược phát triển dựa trên những sản
phẩm thuần Việt. Có như vậy thì quá trình cổ phần
hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp mới
thực sự trở thành công cụ hiệu quả giúp Nhà nước
đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
trong dài hạn theo đúng chủ trương, chính sách mà
Đảng, Nhà nước đã đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội XIV (2018), “Báo cáo Kết quả giám
sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản
lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh
nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
giai đoạn 2011-2016”, ngày 25/05/2018;
2. Cafe F “Bộ trưởng Tài chính: Tỷ lệ vốn được
thoái tại DNNN chỉ đạt 7,5%”;
3. Thời báo Kinh tế Việt Nam “Thủ tướng: Ô tô không
chỉ là ô tô, mà còn là thương hiệu quốc gia”;
4. Vietnamnet, “Bán thương hiệu cho nhà đầu
tư ngoại và bài học kinh nghiệm”
5. VnExpress “Cổ đông lo Kinh Đô mất thương
hiệu bánh kẹo”;
6. M&A Council “Quản lý thương hiệu sau
mua bán, sáp nhập”;
7. Thời báo Kinh doanh toàn cầu “Kiến thức
về thị trường địa phương: Nhìn nhận về
mối tương quan giữa chiến lược kinh doanh
quốc tế và địa phương hóa”.
Ngày nhận bài lần 1: 00/0/2018
Ngày duyệt đăng: 00/0/2018