Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 8 
ĐẶC ĐIỂM CỦA UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN 
TRÊN SIÊU ÂM ĐÀN HỒI 
Hoàng Thụy Đoan Trâm*, Nguyễn Hoàng Bắc**, Võ Tấn Đức***, 
Nguyễn Quang Thái Dương***, Phạm Thái Hưng****,Trần Minh Hoàng*** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Siêu âm đàn hồi ARFI (Acoustic Radiation Force Impulse) là một phương pháp siêu âm đàn 
hồi mới cho việc đánh giá độ cứng của nhu mô, tích hợp được với hệ thống siêu âm thang xám, có thể đánh giá 
không xâm lấn độ cứng của các mô ở sâu. Vi vậy, kỹ thuật siêu âm đàn hồi ARFI này thích hợp cho việc đánh giá 
các tổn thương khu trú tại gan. Tại Việt Nam, hiện nay kỹ thuật siêu âm đàn hồi ARFI vẫn chưa được ứng dụng 
rộng rãi. Do đó, mục đích của nghiên cứu chủ yếu là tập trung mô tả đặc điểm của u gan ác tính thường gặp 
nhất trên siêu âm, cụ thể là Ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh của UTBMTBG trên siêu âm đàn hồi ARFI và đánh giá mức độ xơ hóa 
gan trên bệnh nhân UTBMTBG. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, mẫu nghiên cứu gồm 55 bệnh nhân 
có kết quả giải phẫu bệnh là UTBMTBG tại bệnh viện Đại Học Y Dươc thành phố Hồ Chí Minh, được phân tích 
trên hệ thống máy siêu âm đàn hồi Acuion S2000 với hai tính năng VTI (Virtual Touch Imaging) và VTQ 
(Virtual Touch tissue Quantification). 
Kết quả:Trên hình ảnh ARFI với tính năng VTI: UTBMTBG hiển thị màu đen hơn so với nhu mô gan 
xung quanh chiếm tỉ lệ cao nhất 72,7%. UTBMTBG có giới hạn rõ chiếm tỉ lệ 70,9%. Độ nhạy và độ đặc hiệu của 
hình ảnh siêu âm VTI trong việc xác định giới hạn u lần lượt là 70,2% và 25%.Trên hình ảnh ARFI với tính 
năng VTQ: Giá trị VTQ trung bình của UTBMTBG là 2,7 ± 0,2 m/s. Đánh giá độ xơ hóa của nhu mô gan xung 
quanh u trên siêu âm đàn hồi theo Metavir: 18,2% số trường hợp gan không bị xơ hóa (F0), gan xơ hóa từ mức 
độ nhẹ F1, trung bình F2, nặng F3 và xơ gan F4 lần lượt là 16,4%, 34,5%, 14,5% và 16,4%. 
Kết luận: Siêu âm đàn hồi ARFI là phương pháp chẩn đoán đơn giản, không xâm lấn, và có thể hữu ích cho 
việc phân biệt các u gan lành tính và ác tính. 
Từ khóa: Siêu âm đàn hồi, siêu âm ARFI, Ung thư biểu mô tế bào gan. 
ABSTRACT 
CHARACTERIZATION OF HEPATOCELLULAR CARCINOMA 
USING ACOUSTIC RADIATION FORCE IMPULSE ELASTOGRAPHY. 
Hoang Thuy Doan Tram, Nguyen Hoang Bac, Vo Tan Duc, 
Nguyen Quang Thai Duong, Pham Thai Hung, Tran Minh Hoang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 8 - 12 
Background: Acoustic radiation force impulse (ARFI) imaging is a new elastography method for the 
evaluation of tissue stiffness, integrated into a conventional US sys- tem, able to non-invasively evaluate the 
stiffness of deep tissues. So, this elastographic technique is suitable for solid liver lesions assessment. This 
* Bệnh viện Nhật Tân ** Bộ Môn Ngoại Tổng Quát-ĐHYD TPHCM 
***Bộ Môn Chẩn Đoán Hình Ảnh- ĐHYD TP HCM 
**** Bộ Môn Kỹ Thuật Hình Ảnh- ĐHYD TPHCM 
Tác giả liên lạc:Ths.Bs Hoàng Thụy Đoan Trâm, ĐT: 0933749738, Email:
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chẩn Đoán Hình Ảnh 9
technique ultrasound has not been widely applied in Viet Nam today. Therefore, the purpose of this study was to 
describe the characterictics of Hepatocellular carcinoma (HCC), the most common malignant liver tumor. 
Obiectives: This study was conducted to describe the characteristics of HCC on ARFI elastography 
ultrasound and to assess the severe liver fibrosis. 
Materials and methods: This is a cross-sectional descriptive study. A total of 55 patients with HCC lesions 
were included in the study, these HCC images were analyzed on Acusion S2000 with TVI and VTQ modes at 
University medical center Ho Chi Minh City. 
Resluts: On VTI mode: 72.7% HCC lesions were darker (stiffer) than the surrounded background liver, 
70.9% HCC lesions had good conspicuity on ARFI ultrasound. The sensitivity and specificity of VTI mode for 
clear limit assessment were 70.2% and 25%, respectively. On VTQ mode: the mean shear wave velocity of HCC 
was 2.7± 0.2m/s in this study. The liver fibrosis on ARFIultrasound according to the Metavir scores were: 18.2% 
for patiens with stage F0, 16.4% for patient with stage F1, 34.5% for patient with stage F2, 14.5% for patients 
with stage F3 and 16.4% for patients with stage F4. 
Conclusions: ARFI is a simple, noninvasive and might become a useful diagnostic method for the 
differentiation between benign and malignant liver lesions. 
Key words: Elastography, Acoustic Radiation Force impulse imaging, Hepatocellular carcinoma. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Siêu âm là kỹ thuật đầu tiên được chọn lựa 
cho việc phát hiện và mô tả những đặc điểm của 
tổn thương tại gan. Bởi vì siêu âm có nhiều ưu 
điểm như tính sẵn có, giá thành thấp, dễ thực 
hiện lại và an toàn về mặt sinh học. Tuy nhiên, 
độ nhạy và độ đặc hiệu của siêu âm thang xám 
cho việc phát hiện và mô tả những tổn thương 
tại gan thì thấp hơn 70%(10). Siêu âm đàn hồi 
ARFI (Acoustic Radiation Force Impulse), một 
kỹ thuật siêu âm đàn hồi mới được giới thiệu 
gần đây. Điểm khác biệt chủ yếu của kỹ thuật 
ARFI và các kỹ thuật siêu âm đàn hồi trước là 
siêu âm đàn hồiARFI tích hợp được với hệ thống 
siêu âm thang xám, hiển thị hình ảnh siêu âm 
theo thời gian thực. Do đó, ngoài việc đánh giá 
tình trạng xơ gan, kỹ thuật siêu âm đàn hồi ARFI 
này cũng thích hợp cho việc đánh giá các tổn 
thương khu trú tại gan. Cho đến thời điểm này, 
có nhiều nghiên cứu cũng đã tập trung vào ứng 
dụng của ARFI trong việc đánh giá các tổn 
thương khu trú tại gan, cụ thể là khả năng phân 
biệt tổn thương lành tính, ác tính dựa vào định 
lượng độ cứng của tổn thương. Với những kết 
quả thu được, các nghiên cứu phần lớn cho thấy 
rằng, siêu âm đàn hồi ARFI hữu ích và có tiềm 
năng trong việc chẩn đoán phân biệt những khối 
u ác tính và lành tính tại gan(2,4,9,11). Tại Việt Nam, 
hiện nay kỹ thuật siêu âm đàn hồi ARFI vẫn 
chưa được ứng dụng rộng rãi. Do đó, mục đích 
của nghiên cứu chủ yếu là tập trung mô tả đặc 
điểm của u gan trên siêu âm ARFI, cụ thể là Ung 
thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG), u gan ác 
tính thường gặp nhất. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được tiến hành theo phương 
pháp mô tả cắt ngang trên 55 bệnh nhân 
UTBMTBG tại bệnh viện Đại Học Y Dược thành 
phố Hồ Chí Minh từ tháng 01/2013 đến tháng 
04/2014. Siêu đàn hồi ARFI được thực hiện bằng 
hệ thống máy siêu âm Acuson S2000 (Siemens, 
Đức), sử dụng đầu dò cong (4C1), tần số 4MHz. 
Siêu âm ARFI được thực hiện sau khi tổn 
thương tại gan đã được xác định về vị trí, kích 
thước, giới hạn và độ hồi âm bằng trên hình ảnh 
siêu âm thang xám. 
Tổn thương được phân tích trên hai tính 
năng VTI và VTQ. Hai tính năng VTI và VTQ 
được sử dụng để phát hiện bán định lượng và 
định lượng độ cứng của tổn thương. 
KẾT QUẢ 
Nồng độ AFP huyết thanh: 40% bệnh nhân 
mắc UTBMTBG có nồng độ AFP huyết thanh ≥ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 10 
200ng/ml, thấp hơn tỉ lệ bệnh nhân có nồng độ 
AFP huyết thanh < 200ng/ml (60%). UTBMTBG 
xảy ra ở gan phải (85,5%) nhiều hơn gan trái 
(15,5%). UTBMTBG có kích thước trung bình là 
4,6 ± 0,25cm ( thay đổi từ 1,5 – 10cm). UTBMTBG 
có vỏ bao trên đại thể, chiếm tỉ lệ cao 85,5%, 
UTBMTBG không có vỏ bao chiếm tỉ lệ thấp hơn 
14,5%. UTBMTBG có giới hạn rõ trên siêu âm 
đàn hồi chiếm tỉ lệ là 70,9%. U gan giới hạn 
không rõ trên siêu âm chiếm tỉ lệ 29,1%. 
Bảng 1. Tương quan giữa giới hạn u trên siêu âm 
ARFI với vỏ bao u trên đại thể 
Giới hạn u trên siêu 
âm 
Vỏ bao u 
Tổng 
Có vỏ bao Không vỏ bao 
Rõ 33 6 39 
Không rõ 14 2 16 
Tổng 47 8 55 
Nhận xét: Từ bảng tương quan giữa giới hạn 
của u trên siêu âm đàn hồi ARFI với vỏ bao u 
trên đại thể, ta tính được độ nhạy độ đặc hiệu 
của siêu âm đàn hồi trong việc xác định giới hạn 
của u lần lượt là 70,2% và 25%. 
Giá trị VTI trong mẫu nghiên cứu 
Bảng 2. Giá trị VTI của UTBMTBG gan trên siêu 
âm đàn hồi 
VTI của u so với nhu mô gan n % 
Đen hơn 40 72,7 
Giống nhau 10 18,2 
Trắng hơn 5 9,1 
Tổng 55 100 
Nhận xét: Trên siêu âm đàn hồi ARFI, với 55 
trường hơp bệnh nhân UTBMTBG, u có màu 
đen hơn (cứng hơn) nhu mô gan xung quanh 
chiếm tỉ lệ cao nhất 72,7% (40/55), u có màu 
trắng hơn (mềm hơn) nhu mô gan xung quanh 
chiếm tỉ lệ thấp nhất 9,1%. 
Bảng 3. Tương quan giữa phân nhóm kích thước u 
và VTI u 
VTI u 
Kích thước u 
5cm Tổng 
Tối 7 77,8% 21 70% 12 75% 40 72,7% 
Cùng màu 1 11,1% 7 23,3% 2 12,5% 10 18,2% 
Sáng 1 11,1% 2 6,7% 2 12,5% 5 9,1% 
Tổng 10100% 6 100% 18 100% 55 100% 
Nhận xét: Trong nhóm UTBMTBG có kích 
thước nhỏ hơn 3cm, có 77,8% u hiển thị màu tối 
hơn (cứng hơn) nhu mô gan, kích thước từ 3-
5cm có 70% u tối hơn nhu mô gan và u có kích 
thước lớn hơn 5cm có 75% u hiển thị màu tối 
hơn so với nhu mô gan. 
Giá trị VTQ trong mẫu nghiên cứu 
Trong mẫu nghiên cứu, trong 55 trường hợp 
u gan có kết quả giải phẫu bệnh là UTBMTBG, 
giá trị trung bình của TVQ đo tại vị trí của u là 
2,7 ± 0,2 m/s. Giá trị VTQ thấp nhất đo được là 
1,25 m/s, giá trị cao nhất là 4,85 m/s. 
Đánh giá xơ gan trên siêu âm đàn hồi ARFI 
Chúng tôi áp dụng bảng phân loại các giai 
đoạn xơ hóa gan của tác giả Lupsor(7) đánh giá 
tình trạng xơ gan của bệnh nhân trong mẫu 
nghiên cứu. Tình trạng xơ hóa gan được xếp loại 
theo Metarvir, với các phân độ sau: Giá trị VTQ 
trung bình của nhu mô gan trong 55 bệnh nhân 
UTBMTBG là 1,55 ± 0,07m/s. Giá trị VTQ thấp 
nhất là 0,75m/s, giá trị cao nhất là 3,84m/s. Có 
18,2% số trường hợp gan không bị xơ hóa (F0), 
gan xơ hóa từ mức độ nhẹ F1, trung bình F2, 
nặng F3 và xơ gan F4 lần lượt là 16,4%, 34,5%, 
14,5% và 16,4%. 
BÀN LUẬN 
Kích thước u trung bình là 4,6 cm (thay đổi 
từ 1,5 -10cm). UTBMTBG trong nghiên cứu của 
chúng tôi có kích thước lớn hơn với một số tác 
giả ngoài nước như: tác giả Kim(5) là 2,1cm, Yu(1) 
là 3,4cm.. 
UTBMTBG thường có vỏ bao xơ xung quanh 
u, sự hiện diện vỏ bao xơ cũng là dấu hiệu gợi ý 
giúp chẩn đoán UTBMTBG trên phương diện 
hình ảnh học, đặc biệt là trên hình ảnh siêu 
âm.Vỏ bảo u trên siêu âm có hình ảnh là viền có 
phản âm kém xung quanh u, giới hạn rõ với mô 
gan xung quanh. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi có 47/55 trường hợp UTBMTBG có vỏ bao 
được quan sát trên đại thể chiếm 85,5%, chỉ có 8 
u không có vỏ bao chiếm tỉ lệ thấp hơn là 14,5%. 
Giới hạn của u trên siêu âm đàn hồi: UTBMTBG 
có giới hạn rõ trên siêu âm đàn hồi chiếm tỉ lệ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chẩn Đoán Hình Ảnh 11
70,9%, cao hơn u có giới hạn không rõ chiếm tỉ lệ 
29,1%. 
Tính năng VTI 
Cung cấp thông tin bán định lượng độ cứng 
của mô đích.Trong mẫu nghiên cứu, UTBMTBG 
cứng hơn (màu tối hơn) nhu mô gan xung 
quanh chiếm tỉ lệ cao nhất 72,7% , u có màu sáng 
hơn (mềm hơn) nhu mô gan xung quanh chiếm 
tỉ lệ thấp nhất 9,1%. Chúng tôi chia kích thước u 
là 3 nhóm, nhóm u có kích thước < 3cm thì có 
77,8% UTBMTBG có màu tối hơn so với nhu mô 
xung quanh. Nhóm u có kích thước từ 3cm -5cm 
thì có 70% u có màu tối hơn so với nhu mô xung 
quanh. Nhóm u có kích thước > 5cm thì 75% u 
tối hơn nhu mô xung quanh. Kết quả này trong 
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số 
nghiên cứu của các tác giả như Cho và cs(1) 
UTBMTBG mềm hơn nhu mô gan xung quanh 
chiếm 24%, u có độ cứng tương đương và cứng 
hơn nhu mô gan xung quanh chiếm tỉ lệ cao hơn 
là 76%. Trong nghiên cứu của Kim và cs(6), có 
15,4% UTBMTBG mềm hơn nhu mô gan xung 
quanh, 84,6% u cứng tương đương và cứng hơn 
nhu mô gan xung quanh. Như vậy, tính năng 
VTI của siêu âm đàn hồi cho thấy đa số 
UTBMTBG cứng hơn nhu mô gan bình thường 
xung quanh. 
Hình 1: Tính năng VTI của siêu âm ARFI . U gan 
cứng hơn nhu mô gan xung quanh 
Tính năng VTQ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi,giá trị vận 
tốc biến dạng VTQ trung bình của UTBMTBG là 
2,7cm ± 0,2cm (biến thiên từ 1,25 - 4,85 cm). Giá 
trị VTQ của u biến thiên nhiều như vậy có thể 
giải thích do sự hiện diện ít hay nhiều số lượng 
vách xơ trong khối u mà vận tốc biến dạng của u 
hiển thị thấp hay cao. Giá trị VTQ đo tại khối u 
thấp hơn nhu mô gan xung quanh có thể là do 
mô u chứa nhiều tế bào và ít mô xơ hơn so với 
sự xơ hóa nhiều hơn của mô gan quanh u. Giá trị 
VTQ trung bình của UTBMTBG trong nghiên 
cứu của chúng tôi cũng phù hợp với giá trị VTQ 
trung bình của UTBMTBG trong một số nghiên 
cứu như tác giả Park(9) là 2,48m/s, tác giả Kim(6) là 
2,66m/s, tác giả Gallotti(3) là 2,17m/s, tác giả Yu(11) 
là 2,49m/s. 
Hình2:Giá trị VTQ của UTBMTBG trên siêu âm 
ARFI. 
Đánh giá xơ gan trên siêu âm đàn hồi ARFI 
Bởi vì hầu hết các trường hợp UTBMTBG có 
liên quan đến tổn thương gan mạn tính, nên tình 
trạng chức năng gan của bệnh nhân phải được 
xem xét đồng thời với tình trạng của khối u khi 
tiến hành lựa chọn phương pháp điều trị.Trong 
mẫu nghiên cứu có 81,2% bệnh nhân có độ xơ 
hóa gan từ mức độ nhẹ đến xơ gan, chỉ có 18,2% 
bệnh nhân có tình trạng nhu mô gan bình 
thường. Kết quả này hợp lý vì trình trạng viêm 
gan vi rút mạn tính trong nghiên cứu chúng tôi 
chiếm tỉ lệ cao 94,5%. 
Siêu âm đàn hồi ARFI là kỹ thuật hình ảnh 
siêu âm mới, cung cấp cả hai hình ảnh siêu âm 
thang xám và đo độ đàn hồi của mô đích. Sự 
khác biệt về độ cứng của mô được xem như 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 12 
phản ánh quá trình bệnh học khác nhau, và đo 
độ cứng của mô có thể giúp phân biệt các loại 
tổn thương khu trú. Vì vậy hình ảnh ARFI có thể 
cung cấp thông tin hữu ích cho việc nghiên cứu 
các tổn thương tại gan. Kỹ thuật siêu âm ARFI là 
kỹ thuật triển vọng và có giá trị trong thực hành 
lâm sàng, bởi vì đây là một phương pháp tin cậy, 
không xâm lấn và có khả năng bộc lộ tổn thương 
gan với kích thước nhỏ. Thêm vào đó, hình ảnh 
ARFI có thể được tích hợp một cách dễ dàng, 
không tốn kém vào quy trình hình ảnh học mà 
trước giờ đã sử dụng siêu âm thang xám. Do đó, 
hình ảnh ARFI có thể là một nền tảng khả thi và 
hữu ích trong việc phát hiện và mô tả đặc điểm 
của tổn thương khu trú cũng như hướng dẫn 
can thiệp. Sự phát triển nhanh chóng và sự cải 
thiện về kỹ thuật của siêu âm đàn hồi ARFI sẽ 
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hiện 
UTBMTBG trên lâm sàng. Hơn nữa, việc sử 
dụng hệ thống hình ảnh như vậy có thể có khả 
năng làm giảm sự phụ thuộc vào phương thức 
như XQCLVT và Cộng hưởng từ, là hai kỹ thuật 
có chi phí cao và phức tạp. Các đặc tính của siêu 
âm đàn hồi ARFI được thiết lập để làm cho hình 
ảnh ARFI ngày càng phổ biến hơn trong ngành 
hình ảnh học. 
KẾT LUẬN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì 
UTBMTBG có kích thước trung bình là 4,6 ± 0,25 
cm.UTBMTBG có vỏ bao trên đại thể, chiếm tỉ lệ 
cao 85,5%. UTBMTBG cứng hơn so với nhu gan 
xung quanh chiếm tỉ lệ cao nhất 72,7%, chỉ 9,1% 
u mềm hơn nhu mô xung quanh. UTBMTBG có 
giới hạn rõ chiếm tỉ lệ 70,9%. Độ nhạy và độ đặc 
hiệu của hình ảnh siêu âm VTI trong việc xác 
định vỏ bao u lần lượt là 70,2% và 25%. Đánh giá 
độ xơ hóa của nhu mô gan xung quanh u trên 
siêu âm đàn hồi: Áp dụng bảng phân loại của tác 
giả Lupsor, kết quả ghi nhận có 18,2% số trường 
hợp gan không bị xơ hóa (F0), gan xơ hóa từ 
mức độ nhẹ F1, trung bình F2, nặng F3 và xơ gan 
F4 lần lượt là 16,4%; 34,5%; 14,5% và 16,4%. 
TÀI LIÊU THAM KHẢO 
1. Cho SH, Lee JY, Han JK, Choi BI (2010), "Acoustic radiation 
force impulse elastography for the evaluation of focal solid 
hepatic lesions: preliminary findings". Ultrasound Med Biol, 36(2), 
202-208. 
2. Davies G, Koenen M (2011), "Acoustic radiation force impulse 
elastography in distinguishing hepatic haemangiomata from 
metastases: preliminary observations". Br J Radiol, 84(1006), 939-
943. 
3. Gallotti A, D'Onofrio M, Romanini L, Cantisani V, Pozzi Mucelli 
R (2012), "Acoustic Radiation Force Impulse (ARFI) ultrasound 
imaging of solid focal liver lesions". Eur J Radiol, 81(3), 451-455. 
4. Guibal A, Boularan C, Bruce M, Vallin M, Pilleul F, Walter T, et 
al (2013), "Evaluation of shearwave elastography for the 
characterisation of focal liver lesions on ultrasound". Eur Radiol, 
23(4), 1138-1149. 
5. Kim CK, Lim JH, Lee WJ (2001), "Detection of hepatocellular 
carcinomas and dysplastic nodules in cirrhotic liver: accuracy of 
ultrasonography in transplant patients". J Ultrasound Med, 20(2), 
99-104. 
6. Kim JE, Lee JY, Bae KS, Han JK, Choi BI (2013), "Acoustic 
radiation force impulse elastography for focal hepatic tumors: 
usefulness for differentiating hemangiomas from malignant 
tumors". Korean J Radiol, 14(5), 743-753. 
7. Levrero M (2006), "Viral hepatitis and liver cancer: the case of 
hepatitis C". Oncogene, 25(27), 3834-3847. 
8. Nagao T, Inoue S, Goto S, Mizuta T, Omori Y, Kawano N, et al 
(1987), "Hepatic resection for hepatocellular carcinoma. Clinical 
features and long-term prognosis". Ann Surg, 205(1), 33-40. 
9. Park H, Park JY, Kim Do Y, Ahn SH, Chon CY, Han KH, et al 
(2013), "Characterization of focal liver masses using acoustic 
radiation force impulse elastography". World J Gastroenterol, 
19(2), 219-226. 
10. Wernecke K, Rummeny E, Bongartz G, Vassallo P, Kivelitz D, 
Wiesmann W, et al (1991), "Detection of hepatic masses in 
patients with carcinoma: comparative sensitivities of 
sonography, CT, and MR imaging". AJR Am J Roentgenol, 157(4), 
731-739. 
11. Yu H, Wilson SR (2011), "Differentiation of benign from 
malignant liver masses with Acoustic Radiation Force Impulse 
technique". Ultrasound Q, 27(4), 217-223. 
Ngày nhận bài báo: 20/10/2014 
Ngày phản biện nhận bài nhận xét: 24/10/2014 
Ngày bài báo được đăng: 15/01/2015