Đặc điểm giải phẫu bệnh u trung mạc màng phổi

Đặt vấn đề: U trung mạc ác tính màng phổi là loại u thường gặp do tiếp xúc với amiăng. Đây là một loại u khó chẩn đoán, thường bị bỏ sót hoặc chẩn đoán lầm với ung thư di căn vào màng phổi đặc biệt là loại carcinôm tuyến phế quản xâm lấn vào màng phổi. Gần đây nhờ vào các chất đánh dấu mới của phương pháp hóa mô miễn dịch đã giúp cho việc chẩn đoán loại u này được thuận lợi và chính xác hơn. Đối tượng & Phương pháp nghiên cứu: Trong loạt ca nghiên cứu của chúng tôi về u trung mạc màng phổi, chúng tôi dùng 6 dấu ấn bao gồm: CK, TTF-1, surfactant protein A, desmin, HBME-1 và calretinin để chẩn đoán xác định các u trung mạc và đồng thời giúp chẩn đoán phân biệt với carcinôm tuyến phế quản xâm lấn vào màng phổi. Kết quả & Bàn luận: Với 39 ca thu nhận được trong 3 năm từ 2008-2010, cho thấy việc chẩn đoán u trung mạc màng phổi cần có những gợi ý về dịch tễ học, hình ảnh học, tế bào học và mô học trên nhuộm HE thường qui để đi đến thực hiện hóa mô miễn dịch giúp chẩn đoán xác định tốt hơn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và đánh giá về kỹ thuật chẩn đoán này cũng rất cần thiết. Với 6 dấu ấn kể trên theo chúng tôi vẫn chưa thật sự hoàn hảo để chẩn đoán hết về những yếu tố trong bệnh lý u trung mạc như: chẩn đoán phân biệt với các loại carcinôm di căn tới màng phổi, tiên lượng và điều trị của bệnh. Kết luận: Việc chẩn đoán u trung mạc ác tính màng phổi là một chẩn đoán khó. Cần thiết thực hiện nhuộm hóa mô miễn dịch và hóa tế bào miễn dịch với nhiều loại dấu ấn để có chẩn đoán chính xác. Ngoài ra, hóa mô miễn dịch còn giúp ích trong nhiều khía cạnh của loại u trung mạc: chẩn đoán phân biệt với các loại carcinôm di căn vào màng phổi, tiên lượng bệnh và điều trị.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm giải phẫu bệnh u trung mạc màng phổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 137 ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU BỆNH U TRUNG MẠC MÀNG PHỔI Nguyễn Sơn Lam* TÓM TẮT Đặt vấn đề: U trung mạc ác tính màng phổi là loại u thường gặp do tiếp xúc với amiăng. Đây là một loại u khó chẩn đoán, thường bị bỏ sót hoặc chẩn đoán lầm với ung thư di căn vào màng phổi đặc biệt là loại carcinôm tuyến phế quản xâm lấn vào màng phổi. Gần đây nhờ vào các chất đánh dấu mới của phương pháp hóa mô miễn dịch đã giúp cho việc chẩn đoán loại u này được thuận lợi và chính xác hơn. Đối tượng & Phương pháp nghiên cứu: Trong loạt ca nghiên cứu của chúng tôi về u trung mạc màng phổi, chúng tôi dùng 6 dấu ấn bao gồm: CK, TTF-1, surfactant protein A, desmin, HBME-1 và calretinin để chẩn đoán xác định các u trung mạc và đồng thời giúp chẩn đoán phân biệt với carcinôm tuyến phế quản xâm lấn vào màng phổi. Kết quả & Bàn luận: Với 39 ca thu nhận được trong 3 năm từ 2008-2010, cho thấy việc chẩn đoán u trung mạc màng phổi cần có những gợi ý về dịch tễ học, hình ảnh học, tế bào học và mô học trên nhuộm HE thường qui để đi đến thực hiện hóa mô miễn dịch giúp chẩn đoán xác định tốt hơn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và đánh giá về kỹ thuật chẩn đoán này cũng rất cần thiết. Với 6 dấu ấn kể trên theo chúng tôi vẫn chưa thật sự hoàn hảo để chẩn đoán hết về những yếu tố trong bệnh lý u trung mạc như: chẩn đoán phân biệt với các loại carcinôm di căn tới màng phổi, tiên lượng và điều trị của bệnh. Kết luận: Việc chẩn đoán u trung mạc ác tính màng phổi là một chẩn đoán khó. Cần thiết thực hiện nhuộm hóa mô miễn dịch và hóa tế bào miễn dịch với nhiều loại dấu ấn để có chẩn đoán chính xác. Ngoài ra, hóa mô miễn dịch còn giúp ích trong nhiều khía cạnh của loại u trung mạc: chẩn đoán phân biệt với các loại carcinôm di căn vào màng phổi, tiên lượng bệnh và điều trị. Từ khóa: U trung mạc ác tính màng phổi, hóa mô miễn dịch, hóa tế bào miễn dịch, chất đánh dấu. ABSTRACT PATHOLOGICAL FEATURES OF PLEURAL MESOTHELIOMA Nguyen Son Lam * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 137 - 143 Opening: Malignant pleural mesotheliomas are frequently caused by exposure to asbestos. These tumors are difficult to diagnose, and often overlooked or misdiagnosed with cancer metastasis invasive to the pleura, especially bronchogenic adenocarcinoma. Recently, basing on new markers of immunohistochemical methods have enabled the diagnosis of this tumor more convenient and more accurate. Subjects & Methods: In our case series study of malignant pleural mesothelioma, we used 6 markers including CK, TTF-1, Surfactant Protein-A, Desmin, Calretinin and HBME-1 to diagnose this tumor and to exclude bronchogenic adenocarcinoma, a pleural invasive tumor. Results & Discussion: 39 cases obtained in 3 years from 2008 to 2010 show that the diagnosis of malignant pleural mesothelioma needs suggestions on epidemiology, imaging studies, cytology and histology on routine HE staining to make immunohistochemical staining and finally, to make the diagnosis more accurate. However, it is essential to have more researches and evaluations of this diagnostic techniques. With the above six markers it has not really perfected to diagnose all of the elements in the malignant pleural mesothelioma, such as the diagnosis, *BV. Phạm Ngọc Thạch Tác giả liên lạc: Ths.BS. Nguyễn Sơn Lam. ĐT: 0913148308 – Email: drnsl1963@yahoo.com.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 138 prognosis and treatment of pleural metastatic carcinomas. Conclusion: It is difficult to make a diagnosis of malignant mesothelioma. The implementation of immunohistochemical staining of a variety of markers is necessary for accurate diagnoses. In addition, immunohistochemical methods are also helpful in differential diagnosing with other types of carcinomas metastatic to the pleura, prognosis and treatment. Key words: Malignant Pleural Mesothelioma, Immunohistochemistry, Immunocytochemistry, Marker. ĐẶT VẤN ĐỀ U trung mạc ác tính màng phổi là u tân sinh nguyên phát ở màng phổi. Trong thực hành chẩn đoán bệnh học hàng ngày cho loại bệnh lý này thường gặp rất nhiều khó khăn(1,4,6,9,15,17,22). Do hình ảnh trên mô học nhuộm hematoxylin-eosin thường qui rất dễ lầm lẫn với những loại carcinôm di căn tới màng phổi, đặc biệt là loại carcinôm tuyến. Nhiều trường hợp các bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh không thể phân biệt được giữa carcinôm tuyến và u trung mạc màng phổi. Trước đây, khi chưa có hóa mô miễn dịch, tại BV. Phạm Ngọc Thạch chúng tôi thường dùng kỹ thuật nhuộm mucicarmine để phân biệt giữa hai loại bệnh lý này(1,20). Tuy nhiên, kết quả cho thấy cũng có nhiều trường hợp không thể đưa ra được chẩn đoán chính xác để có hướng điều trị thật tốt cho bệnh nhân. Vì vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi dùng hóa mô miễn dịch để chẩn đoán các u trung mạc màng phổi và để chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý carcinôm di căn tới màng phổi, chủ yếu là các loại carcinôm phế quản. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chúng tôi thực hiện nghiên cứu hồi cứu, thống kê mô tả loạt ca bệnh lý với 39 trường hợp bệnh nhân nhập viện tại BV. Phạm Ngọc Thạch từ tháng 1/2008 đến 12/2010, có chẩn đoán xác định ung thư màng phổi dựa vào xét nghiệm giải phẫu bệnh của mẫu mô lấy bằng sinh thiết màng phổi kín, soi màng phổi hoặc nội soi lồng ngực quan sát dưới màn hình video (video- assisted thoracoscopy). Tất cả các bệnh nhân đều được ghi nhận tuổi, giới tính, một số ghi nhận về hình ảnh học, loại mô ung thư, cách lấy bệnh phẩm, hình thái tế bào học, chẩn đoán mô học bằng nhuộm hematoxylin-eosin thường qui trước khi có nhuộm hóa mô miễn dịch. Các dấu ấn chúng tôi sử dụng gồm có 6 loại: CKLMW, TTF-1, Surfactant-A, Desmin, HBME-1, Calretinin. Các số liệu sau khi thu thập sẽ được mã hóa và nhập vào máy vi tính, sử dụng phần mềm SPSS 14.0 để xử lý số liệu. Chúng tôi sử dụng phép kiểm T-Test để so sánh tỉ lệ khác biệt cho các biến định tính. Tất cả các phương pháp kiểm định giả thuyết được thực hiện bằng cách sử dụng kiểm định 2 bên (two-sided alternatives). Ngưỡng ý nghĩa là 0,05 (p < 0,05) để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết thống kê. Qua những dữ liệu thu nhận được, chúng tôi phân tích những đặc điểm sau: - Ghi nhận một số yếu tố về: dịch tễ học, hình ảnh học của các trường hợp u trung mạc. - Ghi nhận hình thái về tế bào học và mô bệnh học với nhuộm thường qui HE so với nhuộm hóa mô miễn dịch trong chẩn đoán u trung mạc. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Một số kết quả về dịch tễ học và lâm sàng Tuổi trung bình: 54,7 ± 5,34 tuổi. Giới: nữ chiếm 23 ca (58,9%), nam chiếm 16 ca (41,1%), tỉ lệ nam/nữ # 2/3: 1 Ghi nhận các triệu chứng về hình ảnh học (X-quang và CT-Scan): Tràn dịch màng phổi: 39 ca (100%) Tràn dịch màng phổi bên phải: 19 ca. Tràn dịch màng phổi bên trái: 15 ca. Tràn dịch màng phổi hai bên: 5 ca. Tràn khí màng phổi: 4 ca (10,3%). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 139 Tổn thương màng phổi (khối, nốt màng phổi, mảng màng phổi): 7 ca (17,9%). Xâm lấn nhu mô phổi: 3 ca (7,7%). Xâm lấn trung thất: 2 ca (5,1%). Nhiều loại tổn thương phối hợp: 11 ca (28,2%). Kỹ thuật lấy mẫu bệnh phẩm chẩn đoán: Rút dịch màng phổi lấy mẫu làm tế bào học: 39 ca. Sinh thiết màng phổi mù bằng kim (Abrams, Castelain): 18 ca. Sinh thiết qua nội soi màng phổi: 16 ca. Nội soi lồng ngực dưới màn hình video (VATs): 5 ca. Số bệnh nhân có tiếp xúc amiăng hay các sản phẩm từ amiăng là nguyên nhân chính hiện nay gây ra u trung mạc: 21 trường hợp (chiếm tỉ lệ 53,8%). So sánh tuổi trung bình và giới u trung mạc với các nghiên cứu khác trên thế giới(3,4,5,6,9,12,13,14,15,19,25,28): Bảng 1: So sánh tuổi trung bình và giới các nghiên cứu về u trung mạc Tuổi trung bình Nam Nữ Boutin C và cs. (1998) 60 90% 10% Nationl Center for Heath Statistics USA (1999) 72,0 219 ca (86,9%) 33 ca (13,1%) Suzuki Y và cs. (2001) 85,8% BN 50-79 tuổi 92,3% 7,7% Roohi IK và cs. (2006) 64 81% 19% Chahinian AP và cs. (2002) 60 59% 41% Inai K và cs. (2006) 67,5 65% 35% Moran CA (2007) > 50 Tỉ lệ Nam/Nữ 3:1 Light RW (2007) Đa số > 60 Tỉ lệ Nam/Nữ # 6:1 Nghiên cứu tại BV.PNT (2010) 54,7 41,1 58,9 Kết quả cho thấy độ tuổi trung bình mắc bệnh của bệnh nhân tại BV. Phạm Ngọc Thạch thấp hơn đa số các nghiên cứu khác (P = 0,0012- 0,036 đều có ý nghĩa thống kê). Điều này có thể do các yếu tố việc tiếp xúc tác nhân gây bệnh sớm và nồng độ bụi amiăng cao trong môi trường sống. Tỉ lệ bệnh nhân nam và nữ mắc phải cũng khác biệt rõ rệt so với các nghiên cứu khác trên thế giới: đa số là bệnh nhân nam. Trong khi đó nghiên cứu của chúng tôi đa số là bệnh nhân nữ (P < 0,001). Trong các dấu hiệu hình ảnh học ghi nhận được qua các trường hợp nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi chủ yếu mô tả các hình ảnh về tràn dịch màng phổi, tràn khí màng phổi, các tổn thương trong màng phổi (khối u, nốt phổi lan tỏa hay khu trú, mảng dầy màng phổi), tổn thương xâm lấn nhu mô phổi, tổn thương xâm lấn trung thất(15,21,24). Những tổn thương chi tiết về độ phân giải, độ dầy của lát cắt CT-Scan, siêu âm, xạ hình xươngkhông có ghi nhận trong nghiên cứu này. Đây chỉ là những đánh giá chung nhất các triệu chứng hình ảnh học dễ phát hiện trong u trung mạc màng phổi chúng tôi ghi nhận được(20). So sánh với các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỉ lệ phát hiện các tổn thương khác ngoài tràn dịch màng phổi, tại BV. Phạm Ngọc Thạch có nhiều khác biệt (P = 0,003 – 0,027 < 0,05) và ít hơn. Điều này cũng chưa chứng minh được khả năng phát hiện sớm bệnh của BV. Phạm Ngọc Thạch. Vì có thể còn một số trường hợp bỏ sót chưa phát hiện hết các tổn thương. Nguyên nhân có thể do thực hiện các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh học chúng tôi chỉ làm chụp X-quang phổi thường qui (bao gồm phim phổi thẳng và phim phổi nghiêng bên có tổn thương) và CT- Scan, không có chụp MRI hoặc CT-Scan với nhiều lát cắt hơn (64 lát cắt) để phát hiện các tổn thương nhỏ hơn và có xâm lấn mô lân cận như ở trung thất, màng tim(1,3,6,11,14,19,22) Bảng 2: So sánh các dấu hiệu hình ảnh học u trung mạc màng phổi Tràn dịch màng phổi Tràn khí màng phổi Tổn thương màng phổi Xâm lấn nhu mô phổi Xâm lấn trung thất Heller RM (1970) 80% 1% 20% 30% 2% Alexander E (1981) 91% 13% 11% 7% Patz EFvà cs (1992) 88% 6% 43% 41% 27% Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 140 Tràn dịch màng phổi Tràn khí màng phổi Tổn thương màng phổi Xâm lấn nhu mô phổi Xâm lấn trung thất Evans AL (2004) 90% 5% 25% 45% 15% Armato SG (2005) 76% 5% 84% 55% 53% Kawashima và cs. (2005) 74% 92% (8% có khối u đơn độc) 50% > 50% Khan RI (2006) 95% 2% 34% 12% 7% Heffner JE (2007) 89% 11% 56% 12% 31% N/C tại BV.PNT (2010) 100% 10,3% 17,9% 7,7% 5,1% So sánh các thủ thuật chẩn đoán tại BV. Phạm Ngọc Thạch và các nghiên cứu khác trên thế giới cho thấy: các nghiên cứu khác trên thế giới họ thực hiện nội soi lồng ngực quan sát dưới màn hình video (VATs) cao hơn so với BV. Phạm Ngọc Thạch, tỉ lệ thực hiện sinh thiết mù bằng kim (Abrams, Castelain) ít dùng và thực hiện nội soi màng phổi cũng nhiều hơn. Trong khi đó, tại BV. Phạm Ngọc Thạch thực hiện sinh thiết màng phổi mù bằng kim cao tương đương với soi màng phổi (16 ca # 18 ca). So sánh yếu tố dịch tễ học phơi nhiễm với amiăng và các sản phẩm từ amiăng(1,2,3,4,6,8,10,11,12,16,20,22,23,29,31). Bảng 3: Tỉ lệ tiếp xúc với yếu tố nguy cơ gây u trung trung mạc Tiếp xúc Amiăng Nhiễm virus SV-40 Có cả hai yếu tố dịch tễ học Wang NS (1996) > 90% Boutin C và cs (1998) > 70% 30% Suzuki Y (2001) 98,1% 43% 12% Chahinian AP (2002) 70 – 80% 40% 25% Gulyás M (2003) > 80% 40 – 70% # 30% Pistolesi M và cs (2004) > 80% 10% Pass HIvà cs. (2005) > 70% > 50% # 40% Sterman DH và cs (2005) > 90% 86% > 50% Rooshi IK (2006) 80% > 50% # 35% Carbone PK và cs (2006) # 80% > 60% # 40% Nghiên cứu tại BV.PNT (2010) 53,8% Kết quả cho thấy tỉ lệ tiếp xúc với amiăng và các sản phẩm từ amiăng ở các nước đều khá cao và khác biệt so với kết quả tại BV. Phạm Ngọc Thạch (P = 0,0014 – 0,021 < 0,05). Điều này có thể do việc điều tra dịch tễ học của chúng tôi chưa hoàn chỉnh. Các nước trên thế giới đã có những điều tra sâu rộng và chi tiết hơn về tình hình dịch tễ bệnh lý do tiếp xúc amiăng về nhiều mặt như: nồng độ bụi và sợi amiăng trong không khí, loại sợi amiăng đang sử dụng, số lượng và khối lượng dùng hàng năm(2,5,8,10,14,15,16,18,22,23) Ngoài ra, chúng tôi chưa có điều kiện để nghiên cứu về tình hình nhiễm virus SV-40 (Simian Virus 40) trên bệnh nhân u trung mạc ác tính. Việc khảo sát tiếp tục về yếu tố dịch tễ học này là rất cần thiết(3,4,11,12,15). Kết quả về chẩn đoán tế bào học và mô học Tất cả 39 trường hợp u trung mạc màng phổi trong nghiên cứu này đều có làm tế bào học dịch màng phổi với những nhận xét như sau: Số trường hợp có tế bào bất thường: 13 ca (chiếm tỉ lệ 33,3%). Số trường hợp chỉ thấy tế bào viêm lymphocytes hoặc vài tế bào trung mạc không điển hình: 26 ca (chiếm tỉ lệ 66,7%). Số trường hợp có tế bào bất thường chẩn đoán sai là carcinôm tuyến: 8 ca (chiếm tỉ lệ 20,5%). Số trường hợp có nhuộm mucicarmine (-): 15 ca (chiếm tỉ lệ %). Hình thái tế bào học dịch màng phổi gợi ý tới u trung mạc thường là hình ảnh mẫu dịch giàu tế bào, các tế bào trung mạc tạo dạng cửa sổ, dạng ôm với nhau, có thể thấy hình ảnh nhân không điển hình hoặc tạo dạng giống tuyến với các không bào chế tiếtTrong các trường hợp này chúng tôi thường thực hiện thêm kỹ thuật nhuộm mucicarmine để phân biệt với carcinôm tuyến. Dựa vào nguyên lý: nhuộm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 141 mucicarmine sẽ bắt màu dương tính trong các tế bào tuyến có không bào chứa chất nhầy mucopolysaccharide, còn tế bào trung mạc chứa glycogen trong bào tương sẽ không ăn màu khi nhuộm mucicarmine. Tuy nhiên, những trường hợp nhuộm mucicarmine (-) vẫn chưa thể loại trừ carcinôm tuyến(1,6,7,9,13,27,29). Ngoài ra, với bệnh phẩm dịch màng phổi cần thực hiện thêm kỹ thuật nhuộm hóa tế bào miễn dịch(Immunohistochemistry)nhằm tận dụng hết khả năng chẩn đoán của tế bào học trong dịch màng phổi. Với những dấu ấn mới như: Glu-1, XIAP, CA 19-9sẽ giúp ích rất nhiều(7,9,12,19,27,29). Kết quả chẩn đoán mô học U trung mạc dạng biểu mô (Epitheliod Malignant Mesothelioma): 19 ca (chiếm tỉ lệ 48,7%). U trung mạc dạng sarcôm (Sarcomatoid Malignant Mesothelioma): 8 ca (chiếm tỉ lệ 20,5%). U trung mạc dạng hỗn hợp (Biphasic Malignant Mesothelioma): 6 ca (chiếm tỉ lệ 15,4%). Các loại u trung mạc khác: 6 ca (chiếm tỉ lệ 15,4%), bao gồm: 3 ca u trung mạc biệt hóa cao dạng nhú (Well-differentiated Papillary Mesothelioma), 2 ca u trung mạc dạng bó sợi (Desmoplastic Mesothelioma), 1 ca u trung mạc dạng bất sản (Anaplastic Mesothelioma). Kết quả phân loại mô học các u trung mạc phát hiện tại BV. Phạm Ngọc Thạch cho thấy đa số là loại u trung mạc dạng biểu mô, còn lại là những loại mô học khác. Nhận định này cũng tương tự như kết luận của các nghiên cứu khác trên thế giới(2,3,4,10,11,18,22,29,30). Tuy nhiên, tỉ lệ loại mô học này có cao hơn và có khác biệt so với kết quả tại BV. Phạm Ngọc Thạch (P = 0,0031 – 0,0043 < 0,05). Việc đánh giá đúng phân loại mô học các u trung mạc cũng rất quan trọng vì điều này có ảnh hưởng đến tiên lượng của bệnh: loại u trung mạc dạng biểu mô có tiên lượng tốt nhất trong tất cả các loại u trung mạc, còn loại u trung mạc dạng sarcôm đặc biệt là loại sarcôm mạch máu màng phổi (angiosarcomatous mesothelioma)(2,3,4,10,11,12,14,15,16,18,23,26,30). Bảng 4: So sánh phân bố loại mô học của u trung mạc U trung mạc dạng biểu mô U trung mạc dạng sarcôm U trung mạc dạng hỗn hợp Các u trung mạc dạng khác Suzuki Y (2001) 61,1% 16,4% 22,1% Pier B. -Giacomo (2002) > 75% 10% 15% # 1% Chahinian A.P (2002) 50 – 70% 7 – 20% 20 – 35% Pistolesi M (2004) 50% 15% 30% 5% Kushitani K và cs (2006) (N/C 90 ca u trung mạc) 71 ca 19 ca Ismail HM.và cs (2006) (N/C 61 ca u trung mạc) 31 ca 9 ca 21 ca Heffer J E (2007) 56% 44% Cesar MA và cs (2007) 70% 5% 25% Light RW (2007) 50% 16% 34% Inai K (2010) 60% 20% 20% 1-2% N/C tại BV.PNT (2010) 48,7% 20,5% 15,4% 15,4% Kết quả các chi tiết kỹ thuật chẩn đoán mô học: Số dấu ấn dùng chẩn đoán cho u trung mạc tại BV. Phạm Ngọc Thạch bao gồm 6 dấu ấn: CKLMW, TTF-1, Surfactant Protein A, Desmin, HBME-1, Calretinin. Số trường hợp chẩn đoán bằng nhuộm thường qui với Hematoxylin-Eosin: 4 ca (chiếm tỉ lệ 10,3%). Số trường hợp chẩn đoán lầm carcinôm tuyến khi nhuộm Hematoxylin-Eosin: 19 ca (chiếm tỉ lệ 48,7%). Số trường hợp chẩn đoán lại bằng hóa mô miễn dịch khi có chẩn đoán của trung tâm giải phẫu bệnh khác (Bộ Môn Giải Phẫu Bệnh ĐH Y Dược TP.HCM): 5 ca (chiếm tỉ lệ 12,8%). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 142 Số trường hợp chưa thể phân biệt rõ ràng giữa carcinôm tuyến và u trung mạc bằng nhuộm HE thường qui (chẩn đoán ban đầu là nghĩ đến u trung mạc): 11 ca (chiếm tỉ lệ 28,2%). Với hình ảnh mô học trên nhuộm HE thường qui, các u trung mạc đặc biệt là loại u trung mạc dạng biểu mô có hình ảnh dạng ống, dạng nhú hay dạng tuyến-nhú. Ngoài ra, có thể kèm tăng sản mô sợi không điển hình trong mô đệm tùy theo týp mô học(4,15,16,18). Tuy nhiên, hình ảnh mô tả kể trên rất khó phân biệt với loại carcinôm tuyến di căn tới màng phổi(11,12,14,30,31). Điều này cũng thấy rõ được qua kết quả khảo sát loạt ca nghiên cứu có tới 19 trường hợp chẩn đoán lầm carcinôm tuyến khi chưa thực hiện hóa mô miễn dịch, chiếm tỉ lệ 48,7%. Trong khi đó chỉ có 4 trường hợp được chẩn đoán ban đầu u trung mạc phù hợp với kết quả hóa mô miễn dịch. Còn lại 16 ca chỉ có thể chẩn đoán gợi ý u trung mạc trên nhuộm HE thường qui. Trong nghiên cứu tại BV. Phạm Ngọc Thạch, chúng tôi sử dụng 6 dấu ấn. Tuy nhiên, so sánh với với các nghiên cứu khác còn nhiều khiếm khuyết. Nhiều nghiên cứu trên thế giới về u trung mạc được sử dụng số lượng marker nhiều hơn: từ 13 dấu ấn tới 24 dấu ấn(8,9,14,15,16,18,25,29,30). Một vấn đề quan trọng nữa chúng tôi chưa giải quyết khi thực hiện nghiên cứu: chẩn đoán phân biệt giữa tăng sản lành tính của tế bào trung mạc với u trung mạc và carcinôm tuyến. Điều này cần thực hiện thêm những dấu ấn khác như: Glu-1, XIAP, MOC-1(11,12,13,29,30) Ngoài ra, trong nghiên cứu chúng tôi thấy u trung mạc còn chẩn đoán phân biệt với carcinôm không biệt hóa đặc biệt là loại u trung mạc dạng bất sản (Anaplastic Mesothelioma) có cấu trúc vi thể rất giống với carcinôm không biệt hóa di căn tới màng phổi(20,30). Tóm tắt các gợi ý chẩn đoán u trung mạc Tiền sử: tiếp xúc lâu năm với amiăng hay các sản phẩm chế tạo từ amiăng. Lâm sàng & hình ảnh học: tràn dịch màng phổi có thể kèm theo tổn thương u hay nốt màng phổi. Tế bào học dịch màng phổi: có tăng sản tế bào trung mạc nhuộm mucicarmine (-). Mẫu mô sinh thiết màng phổi nhuộm HE: hình ảnh tăng sản giống carcinôm tuyến có kèm tăng sản mạnh mô đệm sợi. Cần thực hiện nhuộm hóa mô miễn dịch để chẩn đoán xác định và phân biệt u trung mạc với carcinôm di căn vào màng phổi đặc biệt là loại carcinôm tuyến. Hóa mô miễn dịch cần bổ sung nhiều dấu ấn để độ chính xác cao hơn và có thể ứng dụng