Đặc điểm giải phẫu học động mạch thận cực dưới ở người Việt Nam

Đặt vấn đề: Trong phẫu thuật hẹp khúc nối bể thận – niệu quản, một trong những nguyên nhân ngoại lai phổ biến là sự hiện diện động mạch thận cực dưới. Tuy nhiên việc mô tả về phương diện giải phẫu các dạng động mạch cực dưới (ĐMCD) đến nay trong y văn trên thế giới và ở Việt Nam vẫn còn khá sơ nét. Vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hy vọng cung cấp đầy đủ hơn những thông tin về mặt hình thái giải phẫu động mạch thận cực dưới cho các nhà phẫu thuật niệu khoa lâm sàng nói riêng và đóng góp thêm về thông số sinh học ở người Việt Nam nói chung. Mục tiêu: Mô tả nguyên ủy, kích thước, đường đi và liên quan của ĐMCD ở người Việt Nam nhằm ứng dụng trong các phẫu thuật hẹp khúc nối bể thận – niệu quản do nguyên nhân bên ngoài và trong các phẫu thuật mạch máu đoạn ngoài thận. Phương pháp: Mô tả nghiên cứu cắt ngang với 81 thi hài người Việt Nam trưởng thành đã ướp formol tại bộ môn Giải phẫu học - ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được chúng tôi phẫu tích từ năm 2003 đến năm 2011. Kết quả: Trong 81 thi hài với 162 quả thận, chúng tôi nhận thấy có 9 quả thận có một ĐMCD (5,55%): 4 quả thận bên phải và 5 quả thận bên trái. Trong 9 ĐMCD đó, chúng tôi thấy có 6 ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ (66,67%), 3 ĐMCD có nguyên ủy từ thân ĐM rốn thận (33,33%). Trong mẫu khảo sát này không có trường hợp nào có 2 ĐMCD trên cùng một thi hài và cũng không có trường hợp nào ĐM rốn phải có nguyên ủy xuất phát thấp hơn ĐM rốn trái. Tỉ lệ ĐMCD nguyên ủy từ ĐM chủ cao gấp 2 lần ĐMCD nguyên ủy từ thân ĐM rốn. Tỉ lệ ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ của thận bên trái cũng cao gấp 2 lần so với thận bên phải. Tất cả ĐMCD trong mẫu này đều đi trước bể thận hay phía trước khúc nối bể thận – niệu quản. Trong trường hợp đa ĐM cung cấp máu cho thận (có sự hiện diện ĐM cực trên, hoặc đa ĐM rốn, hoặc cả hai) thì sự hiện diện ĐM cực dưới là phổ biến (77,78%), nhưng đa ĐM rốn thận có kèm theo ĐMCD của cùng một thận lại chiếm tỉ lệ thấp (11,11%). Kết luận: Qua khảo sát 162 quả thận, sự hiện diện động mạch cực dưới tuy rất thấp (5,55%), nhưng nguyên ủy của động mạch cực dưới từ động mạch chủ là phổ biến (66,67%), phần lớn xảy ra ở thận bên trái. Đa số các thi hài có hiện diện động mạch cực dưới đều có các dạng động mạch khác đi kèm như động mạch cực trên, đa động mạch rốn đối bên Và ngược lại, các động mạch cực dưới thường hiện diện ở thận có một động mạch rốn. Không có đồng thời hai động mạch cực dưới trên cùng một thi hài.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 283 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm giải phẫu học động mạch thận cực dưới ở người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011 76 ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU HỌC ĐỘNG MẠCH THẬN CỰC DƯỚI Ở NGƯỜI VIỆT NAM Võ Văn Hải*; Nguyễn Gia Ninh*; Nguyễn Văn Nhựt*; Dương Văn Hải*; Vũ Lê Chuyên** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Trong phẫu thuật hẹp khúc nối bể thận – niệu quản, một trong những nguyên nhân ngoại lai phổ biến là sự hiện diện động mạch thận cực dưới. Tuy nhiên việc mô tả về phương diện giải phẫu các dạng động mạch cực dưới (ĐMCD) đến nay trong y văn trên thế giới và ở Việt Nam vẫn còn khá sơ nét. Vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hy vọng cung cấp đầy đủ hơn những thông tin về mặt hình thái giải phẫu động mạch thận cực dưới cho các nhà phẫu thuật niệu khoa lâm sàng nói riêng và đóng góp thêm về thông số sinh học ở người Việt Nam nói chung. Mục tiêu: Mô tả nguyên ủy, kích thước, đường đi và liên quan của ĐMCD ở người Việt Nam nhằm ứng dụng trong các phẫu thuật hẹp khúc nối bể thận – niệu quản do nguyên nhân bên ngoài và trong các phẫu thuật mạch máu đoạn ngoài thận. Phương pháp: Mô tả nghiên cứu cắt ngang với 81 thi hài người Việt Nam trưởng thành đã ướp formol tại bộ môn Giải phẫu học - ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được chúng tôi phẫu tích từ năm 2003 đến năm 2011. Kết quả: Trong 81 thi hài với 162 quả thận, chúng tôi nhận thấy có 9 quả thận có một ĐMCD (5,55%): 4 quả thận bên phải và 5 quả thận bên trái. Trong 9 ĐMCD đó, chúng tôi thấy có 6 ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ (66,67%), 3 ĐMCD có nguyên ủy từ thân ĐM rốn thận (33,33%). Trong mẫu khảo sát này không có trường hợp nào có 2 ĐMCD trên cùng một thi hài và cũng không có trường hợp nào ĐM rốn phải có nguyên ủy xuất phát thấp hơn ĐM rốn trái. Tỉ lệ ĐMCD nguyên ủy từ ĐM chủ cao gấp 2 lần ĐMCD nguyên ủy từ thân ĐM rốn. Tỉ lệ ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ của thận bên trái cũng cao gấp 2 lần so với thận bên phải. Tất cả ĐMCD trong mẫu này đều đi trước bể thận hay phía trước khúc nối bể thận – niệu quản. Trong trường hợp đa ĐM cung cấp máu cho thận (có sự hiện diện ĐM cực trên, hoặc đa ĐM rốn, hoặc cả hai) thì sự hiện diện ĐM cực dưới là phổ biến (77,78%), nhưng đa ĐM rốn thận có kèm theo ĐMCD của cùng một thận lại chiếm tỉ lệ thấp (11,11%). Kết luận: Qua khảo sát 162 quả thận, sự hiện diện động mạch cực dưới tuy rất thấp (5,55%), nhưng nguyên ủy của động mạch cực dưới từ động mạch chủ là phổ biến (66,67%), phần lớn xảy ra ở thận bên trái. Đa số các thi hài có hiện diện động mạch cực dưới đều có các dạng động mạch khác đi kèm như động mạch cực trên, đa động mạch rốn đối bênVà ngược lại, các động mạch cực dưới thường hiện diện ở thận có một động mạch rốn. Không có đồng thời hai động mạch cực dưới trên cùng một thi hài. Từ khóa: Động mạch thận, động mạch rốn thận (ĐMRT), động mạch thận cực trên (ĐMCT), động mạch thận cực dưới (ĐMCD), cuống thận. ABSTRACT ANATOMY OF THE LOWER POLAR ARTERIES OF THE VIETNAMESE KIDNEYS Vo Van Hai*; Nguyen Gia Ninh; Nguyen Van Nhut; Duong Van Hai; Vu Le Chuyen * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 – No. 2 – 2011: 76 - 81 1 Bộ môn Giải Phẫu học, Bệnh viện ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Bình Dân TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS.BS. Võ Văn Hải ĐT: 0903323420 Email: drvovanhai@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học 77 Background: In the surgical treatment of ureteropelvic junction obstruction, one of the most common extrinsic causes is the existence of the lower polar artery of the kidneys. However, there is little description of anatomical categories of the lower polar artery in medical researches in the world in general and in Vietnam in particular. Therefore, we carried out this study to provide surgeons with further information about anatomical morphology of the lower polar artery of the Vietnamese kidney. Aim: Describe anatomical lower polar arteries of the Vietnamese kidneys to apply for renal surgery. Material and Method: We conducted a cross sectional descriptive study in 81 cadavers of Vietnamese adults in the Anatomy Department Laboratory of the University of Medicine and Pharmacy at HCMC from 2003 to 2011. Result: In 162 kidneys of 81 cadavers, there are 9 kidneys with one lower polar artery (5.55%): four right kidneys and five left kidneys. Among the 9 lower polar arteries (LPA), six originate from the aorta (66.67%) and three from renal hilar artery (HA) (33.33%). In this observation, there is no case of two LPAs in one cadaver, and no case of hilar artery of the right kidney arising from lower position than that of the left kindey. The rate of LPAs arising from the aorta is twice as high as the ones arising from HA. The rate of LPAs arising from aorta in the left kidneys is also twice as high as the ones in the right kidneys. All of the 9 LPAs cross either in front of the pelvis or ureteropelvic junction. In the multiple renal arteries (kidney with upper polar artery (UPA), or/and multiple hilar arteries), the presence of LPA is common (77.78%), but the presence of multiple hilar arteries together with LPA on one kidney is low (11.11%). Conclusion: In this observation, the appearance rate of LPAs is low (5.55%), but the LPAs originating from the aorta is common (66.67%), mostly in the left kidneys. The majority of cadavers with the presence of LPA has UPA or/and multiple renal arteries on the opposite kidney. By contrast, the LPAs are often present in one hilar renal artery. There is no case of two LPAs in one cadaver. Key words: renal artery, hilar artery (HA), upper polar artery (UPA), lower polar artery (LPA), pedical of kidney. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong phẫu thuật bệnh lý hẹp khúc nối bể thận – niệu quản, nguyên nhân bên ngoài hay gặp nhất là sự hiện diện của động mạch cực dưới (ĐMCD) “bất thường” đi ngang qua khúc nối gây chít hẹp mà theo các tác giả có tỉ lệ khá cao từ 30 – 49% các trường hợp(1,3,4,8). Điều trị bảo tồn thận và bể thận trong bệnh lý hẹp khúc nối là cần thiết(2), vì thế việc nắm vững các cấu trúc và các dạng mạch máu cũng như đặc điểm giải phẫu học về nguyên ủy, đường đi và liên quan của ĐMCD ở người bình thường có ý nghĩa quan trọng trong phẫu thuật bệnh lý này. Hơn nữa, việc nghiên cứu các ĐMCD hiện nay còn khá ít(5,6,10,11,12) nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hy vọng đưa ra kết quả góp phần cung cấp thêm thông tin về số liệu hình thái của ĐMCD cho các nhà niệu học nói riêng, và đồng thời bổ sung cho ngành hình thái học và sách giáo khoa về số liệu sinh học của thận ở người Việt Nam nói chung. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Mô tả các dạng động mạch thận cực dưới trong cuống thận ở người Việt Nam trưởng thành nhằm ứng dụng trong các phẫu thuật hẹp khúc nối bể thận – niệu quản và trong phẫu thuật mạch máu thận đoạn ngoài thận. Mục tiêu chuyên biệt Mô tả nguyên ủy, kích thước, đường đi và liên quan của ĐMCD trong cuống thận. Phân loại và nêu ra tần suất các dạng hiện diện của ĐMCD cung cấp máu cho thận. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011 78 ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu Lấy mẫu theo cách thuận tiện và ngẫu nhiên 81 thi hài của người Việt Nam trưởng thành đã được ướp formol tại bộ môn Giải Phẫu học - Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2003 đến năm 2011. Tiêu chuẩn loại trừ: những xác có sẹo mổ vùng bụng thắt lưng có can thiệp trực tiếp trên mạch máu thận làm thay đổi cấu trúc giải phẫu học ban đầu (điều này thường chỉ thấy được khi phẫu tích vào vùng bụng và hố thận). Phẫu tích và ghi nhận kết quả - Đường mổ: chọn đường trắng giữa trên và dưới rốn, bờ dưới cung sườn hai bên và đường ngang rốn hai bên đến đường nách giữa qua các lớp của thành bụng. - Cắt và bóc tách mạc nối lớn, bộc lộ dạ dày – ruột. Sau đó lật vùng dạ dày và khối tá tụy sang bên để bộc lộ vùng thận, rốn thận, niệu quản, động mạch (ĐM) thận và tĩnh mạch (TM) thận, đồng thời quan sát vị trí nguyên uỷ của ĐM thận xuất phát từ ĐM chủ bụng. - Bóc tách thận, cuống thận, TM chủ dưới, ĐM thận, niệu quản thành một khối, đem ra ngoài phẫu tích và làm bộc lộ rõ các mạch máu vùng rốn và cuống thận để quan sát. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Qua khảo sát 162 quả thận được phẫu tích từ năm 2003 đến năm 2011 tại bộ môn Giải Phẫu học - Đại học Y Dược Tp.HCM, chúng tôi nhận thấy có 9 quả thận có một ĐM cực dưới, chiếm tỉ lệ 5,55%, trong đó có 4 quả thận bên phải và 5 quả thận bên trái. Nguyên ủy của ĐMCD Đặc điểm chung: Với 9 quả thận có một ĐMCD (5,55%). Trong 9 ĐMCD này có 6 ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ (66,67%), 3 ĐM cực dưới có nguyên ủy từ thân ĐM rốn thận (33,33%). Và trong số 162 quả thận được khảo sát thì tỉ lệ ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ là 3,7% (6/162) và nguyên ủy từ ĐM rốn là 1,85% (3/162). So sánh với báo cáo của Merklin và Michele(6), tỉ lệ ĐMCD xuất phát từ ĐM chủ theo quan sát của chúng tôi (3,7%) thấp hơn của tác giả Merklin và Michele (6,9%) và tỉ lệ ĐMCD xuất phát từ nhánh ĐM rốn thận của hai tác giả này (3,1%) cũng cao hơn mẫu khảo sát của chúng tôi (1,85%). Tuy nhiên hai tác giả này trong báo cáo đã không phân biệt hay so sánh tỉ lệ nguyên ủy ĐMCD bên trái và bên phải. Bảng 1: Tóm tắt các tỉ lệ về nguyên ủy của ĐM cực dưới ĐM cực dưới Nguyên ủy Tỉ lệ ĐM chủ ĐM rốn thận Chủ / Rốn* Đm chủ / N* ĐM Rốn / N* Thận 2 bên 66,67% (n=6/9) 33,33% (n=3/9) 2 3,7% (n=6/162) 1,85% (n=3/162) Thận phải 22,22% (n=2/9) 22,22% (n=2/9) 1 1,23% (n=2/162) 1,23% (n=2/162) Thận trái 44,44% (n=4/9) 11,12% (n=1/9) 4 2,46% (n=4/162) 0,62% (n=1/162) Thận phải / thận trái 1/2 2 *Chủ / Rốn (lần): tỉ lệ so sánh ĐMCD có nguyên ủy ĐM chủ và ĐM rốn. Với N=162 quả thận Trong 9 ĐMCD đó có 4 ĐMCD bên phải (2 ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ, 2 ĐMCD xuất phát từ thân ĐM rốn) và 5 ĐMCD bên trái (4 ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ và 1 ĐMCD xuất phát từ thân ĐM rốn). Tỉ lệ xuất hiện ĐMCD bên phải và bên trái là 5/4. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Do đó trong mẫu khảo sát 162 quả thận này tỉ lệ xuất hiện ĐMCD 2 bên thận là bằng nhau. Điều này khác biệt với báo cáo của các nhà giải phẫu(5,10,11) là ĐMCD bên phải gặp nhiều hơn bên trái. Từ kết quả khảo sát này, chúng tôi cũng nhận thấy: tỉ lệ ĐMCD nguyên ủy từ ĐM chủ cao gấp 2 lần (6/3) ĐMCD nguyên ủy từ thân ĐM rốn. Ngoài ra, thận trái có tỉ lệ ĐMCD nguyên ủy từ ĐM chủ cũng cao gấp 2 lần (4/2)) so với thận phải (xem Bảng 1) Điều này có phải chăng phù hợp với hình ảnh lâm sàng mà các nhà niệu khoa Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học 79 thường gặp trong các bệnh nhi có bệnh lý hẹp khúc nối do ĐMCD bên trái gặp nhiều hơn bên phải(4,7). Đây là điều cần được làm sáng tỏ hơn nữa vì mẫu khảo sát của chúng tôi còn khá khiêm tốn. Kích thước của ĐMCD Các số đo ĐM cực dưới được tóm tắt trong Bảng 2. Bảng 2: Các số đo của ĐM cực dưới Các số đo (milimet) ĐM cực dưới Số quả thận Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình CD 9 28,40 92,40 56,0556  18,75547 Thận 2 bên phải và trái ĐK 9 0,90 4,40 2,5022  1,04223 CD 6 39,60 68,20 56,8667  10,39897 Nguyên ủy từ ĐM Chủ ĐK 6 0,90 4,40 2,5633  1,18309 CD 3 28,40 92,40 54,4333  33,62742 Nguyên ủy từ ĐM Rốn ĐK 3 1,34 2,93 2,3800  0,90117 CD: chiều dài; ĐK: đường kính Đường đi và liên quan của ĐMCD (xem bảng 3) Bảng 3: Tóm tắt liên quan của ĐM cực dưới ĐM cực dưới Nguyên Ủy Liên quan Cùng Bên Liên quan Đối Bên STT Mã số thận khảo sát Nguyên Ủy của 2 ĐMR* ĐM Chủ ĐM Rốn Số ĐM Rốn Số ĐM Cực Trên Số ĐM Rốn Số ĐM Cực Trên 1 Phải - 1.2/02 0 1 1 1 2 1 2 Phải - 1.7/68 0 1 1 0 1 0 3 Phải - 2.4/59 + 4,5mm 1** 1 1 2 1 4 Phải - 4.6/26 0 1*** 1 0 1 0 5 Trái - 3.3/16 + 8,1mm 1 1 0 1 1 6 Trái - 4.4/24 + 9,6mm 1 1 2 1 1 7 Trái - 2.3/58 0 1 1 1 1 1 8 Trái - 2.1/69 + 5,7mm 1**** 2 1 3 1 9 Trái - 3.4/78 0 1 1 1 2 0 N 4 P + 5 T 6 3 (a) (b) (c) (d) (*) Nguyên ủy của ĐM rốn 2 bên: (n = 0): xuất phát bằng nhau, (+): ĐMR phải xuất phát cao hơn (**)nhánh bên gần gốc chủ, (***) nhánh tận tại rốn, (****) nhánh tận chia sớm của ĐMR 2 (a): N (1 ĐMR) = 8 ca (88,89%); N (2 ĐMR) = 1 ca (11,11%). (b): N = 6 ca (66,66%) kèm ĐMCT cùng bên (c): N = 4 ca (44,44%) đa ĐMR đối bên, N = 5 ca (55,56%) 1 ĐMR đối bên . (d): N = 6 ca (66,66%) ĐMCT đối bên Liên quan bể thận Tất cả các ĐM cực dưới đều đi trước bể thận hay khúc nối bể thận – niệu quản duy có 2 trường hợp ĐM cực dưới đơn thuần chỉ có 1 ĐM rốn thận mỗi bên và không có đi kèm ĐM cực trên trong cùng một người. Và 7 trường hợp ĐM cực dưới còn lại (chiếm tỉ lệ 7/9 = 77,78%) đều có đi kèm 1 hoặc 2 ĐM cực trên của thận cùng bên (6/9 = 66,66%) hoặc của thận đối bên (6/9 = 66,66%). Liên quan đa ĐM cung cấp máu cho thận Khi khảo sát thận cùng bên, chúng tôi nhận thấy duy nhất một trường hợp có 1 ĐM cực dưới đi kèm 2 ĐM rốn thận cùng bên (1/9 = 11,11%), 8 trường hợp còn lại (8/9 = 88,89%) là 1 ĐM cực dưới đi kèm 1 ĐM rốn thận cùng bên. Như vậy đa ĐM rốn thận có ĐMCD kèm theo cùng bên chiếm tỉ lệ thấp (11,11%). Với khảo sát thận đối bên, chúng tôi nhận thấy xuất hiện 4 trường hợp (4/9 = 44,44%) ĐM cực dưới đi kèm thận đối bên có đa ĐM rốn thận (3 trường hợp 2 ĐM rốn thận và 1 trường hợp 3 ĐM rốn thận). Năm trường hợp còn lại (5/9 = 55,56%) ĐM cực dưới có thận Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011 80 đối bên có một ĐM rốn thận. Như vậy ĐMCD hiện diện với sự xuất hiện không phổ biến đa ĐM rốn thận đối bên. Như vậy nếu chúng ta xét đến số lượng động mạch cung cấp cho mỗi thận trên cùng một người thì có 7 trường hợp có hiện diện ĐMCD có kèm dạng đa ĐM cung cấp máu cho thận khá cao (77,78%). Điều này có nghĩa là trong trường hợp đa ĐM cung cấp máu cho thận (hoặc kèm hiện diện ĐM cực trên, hoặc đa ĐM rốn, hoặc cả hai) thì sự hiện diện ĐM cực dưới là phổ biến (77,78%). Liên quan về vị trí xuất phát của các ĐM thận trong thận có ĐMCD: Một điều thú vị rằng có 7 ĐMCD xuất phát từ ĐM chủ và chỉ có 3 ĐMCD xuất phát từ thân ĐM rốn thận. Nhưng trong 3 trường hợp xuất phát từ ĐM rốn thận này, có một trường hợp xuất phát rất gần ĐM chủ (gần gốc xuất phát của ĐM rốn) (hình 1). Hình 1: ĐMCD nguyên ủy từ ĐM rốn nhưng rất gần ĐM chủ Trường hợp thứ hai là nhánh tận chia khá sớm của thân ĐM rốn thận thứ hai, khi ĐM rốn thận thứ hai này cách ĐM chủ chỉ có 22,7mm (trường hợp này có 3 ĐM rốn phải, 2 ĐM rốn trái và 2 ĐM cực trên mỗi bên - hình.2). Trường hợp còn lại ĐMCD là nhánh tận của ĐM rốn khi ĐM rốn này cho các nhánh tận vào rốn thận (hình.3). Cả 3 dạng ĐMCD này đều đi ngay trước khúc nối bể thận – niệu quản. Hình 2 ĐMCD nguyên ủy từ ĐM rốn thứ 2 trong mẫu đa ĐM rốn 2 bên Hình 3 ĐMCD là nhánh tận của ĐM rốn tại rốn thận Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy rằng trong 9 trường hợp thận xuất hiện ĐMCD thì có 5 trường hợp vị trí nguyên ủy của ĐM rốn bên phải từ ĐM chủ ngang bằng với ĐM rốn trái, 4 trường hợp còn lại ĐM rốn bên phải cao hơn ĐM rốn bên trái từ 4,5 - 9,6 mm. Không có trường hợp nào ĐM rốn phải xuất phát thấp hơn ĐM rốn trái. Câu hỏi đặt ra là có phải chăng ĐM rốn thận trái do xuất phát bằng hoặc thấp hơn thận phải trong sự xuất hiện ĐMCD hay không, hay do chính sự xuất hiện ĐMCD này đã làm cho thận trái không lên cao hơn được so với thận phải và làm thận bên trái đã ngừng xoay sớm (gọi là thận xoay bất toàn như các tác giả Vũ Lê Chuyên, Stephens đã đề cập(9,13)) và làm ĐM rốn thận trái có nguyên ủy như vậy. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học 81 KẾT LUẬN Qua khảo sát 81 thi hài với 162 quả thận được phẫu tích từ năm 2003 đến năm 2011 tại bộ môn Giải Phẫu học - Đại học Y Dược Tp.HCM chúng tôi nhận thấy có 9 quả thận có 1 ĐM cực dưới (5,55%): 4 quả thận bên phải và 5 quả thận bên trái; có 6 ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ (66,67%), và 3 ĐMCD có nguyên ủy từ thân ĐM rốn thận (33,33%). Không có trường hợp nào có 2 ĐMCD trên cùng một thi hài. Tỉ lệ ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ cao gấp 2 lần ĐMCD có nguyên ủy từ thân ĐM rốn. Và ở thận bên trái thì tỉ lệ ĐMCD có nguyên ủy từ ĐM chủ cũng cao gấp 2 lần so với thận bên phải. Tất cả ĐMCD trong mẫu khảo sát này đều đi trước bể thận hay phía trước khúc nối bể thận – niệu quản. Trong trường hợp đa ĐM cung cấp máu cho thận (hoặc kèm hiện diện ĐM cực trên, hoặc đa ĐM rốn, hoặc cả hai) thì sự hiện diện ĐM cực dưới là phổ biến (77,78%). Tuy nhiên đa ĐM rốn thận có kèm theo ĐMCD cùng bên lại chiếm tỉ lệ thấp (11,11%). Không có trường hợp nào ĐM rốn phải xuất phát thấp hơn ĐM rốn trái. ĐỀ XUẤT Do sự hiện diện ĐMCD rất thấp, chỉ có 9 trường hợp hiện diện ĐMCD trên 162 quả thận được phẫu tích, nên các kết luận đưa ra còn nhiều vấn đề cần được củng cố với số thi hài nhiều hơn. Hy vọng rằng chúng tôi sẽ tiếp tục những nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này trên những cỡ mẫu lớn hơn. Đặc biệt, sẽ có thêm những nghiên cứu phối hợp được thực hiện trên những phương tiện hình ảnh học và trên người sống trước và trong khi phẫu thuật để cho các số liệu thống kê có ý nghĩa thực tế hơn, được ứng dụng nhiều hơn trong ngành hình thái học nói chung và ngành niệu học nói riêng. Kết quả nghiên cứu này cũng phần nào cho thấy được đặc điểm giải phẫu học khái quát của ĐMCD về nguyên ủy, kích thước, đường đi và liên quan của ĐMCD với các ĐM cung cấp máu cho toàn bộ thận. Từ đó cho thấy phần nào việc nhận định sự xuất hiện ĐMCD trong bệnh lý khúc nối bể thận – niệu quản do nguyên nhân bên ngoài. Bên cạnh đó, nghiên cứu này ít nhiều có ý nghĩa cho việc đánh giá mạch máu cung cấp cho toàn bộ thận trong việc chụp ĐM thận để khảo sát về mặt giải phẫu trước khi lấy và ghép thận. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aaron G, Robbins M.A. (1984). Hydronephrosis due to aberrant vessels: remarkable familial incidence with report of cases. J. Urol 60: 702. 2. Allen T. (1970). Congenital ureteral stricture. J Urol, 104: 19 3. Clark W.R., Malek R.S. (1988). Ueteropelvic Junction Obstruction. Observation on the Classic Type in Adults, J Urol, 138: 276 – 279. 4. Johnston J.H. et al (1977). Pelvic hydronephrosis in children: A review of 219 personal cases. J Urol 117: 97. 5. Lê Văn Cường (1991). Các dạng và dị dạng của động mạch ở người Việt Nam. Luận án phó tiến sĩ y học, TP. Hồ Chí Minh: 123 – 127. 6. Merklin R.J., Michele N.A. (1958). The variant renal and suprarenal blood supply with data on the inferior phrenic, ureteral and gonadal arteries: A statistical analysis based on 185 dissections and review of the literature. J Int Coll Surg, 29: 40 – 75. 7. Nguyễn Thanh Liêm (2002). Thận ứ nước do tắc phần nối bể thận – niệu quản. Phẫu Thuật Tiết Niệu Trẻ Em, NXB Y học: 7 – 23. 8. Rooks V., Lebowitz R. (2001). Extrinsic Ureteropelvic Junction Obstruction from a Crossing Renal Vessel: Demography and Imaging. Pediatr Radiol, 31: 120 – 123. 9. Stephens F.D. (1982). Ureterovascular Hydronephrosis and Aberrant Renal Vessels. J Urol. 128: 984 – 987. 10. Trịnh Xuân Đàn – Lê Gia Vinh (1995). Góp phần nghiên cứu mạch máu cuống thận người Việt Nam trưởng thành. Hình thái học, tập 5 (1): 14 – 15. 11. Trịnh Xuân Đàn – Lê Văn Minh (1996). Nghiên cứu dạng có nhiều động mạch thận. Hình thái học, tập 6 (1): 32-34. 12. Trịnh Xuân Đàn (1999). Nghiên cứu giải phẫu hệ thống bể đài thận và mạch máu, thần kinh thận của người Việt Nam trưởng thành. Luận án tiến sĩ y học, Hà Nội: 39 – 76. 13. Vũ Lê Chuyên (1996). Động mạch bất thường cực dưới và sự liên hệ với bệnh lý khúc nối bồn thận – niệu quản bẩm sinh. Hình thái học, tập 6 (2): 37 – 39.