Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 155
ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU MẠCH MÁU THỪNG TINH 
ĐOẠN TRONG ỐNG BẸN QUA MỔ VI PHẪU 
ĐIỀU TRỊ GIÃN TĨNH MẠCH THỪNG TINH 
Phạm Nam Việt, Phó Minh Tín, Lê Phúc Liên, Nguyễn Tân Cương, Nguyễn Hoàng Đức, 
Từ Thành Trí Dũng, Vũ Hồng Thịnh, Trần Lê Linh Phương * 
TÓM TẮT 
Mục đích: Mô tả đặc điểm giải phẫu của tĩnh mạch, động mạch và mạch bạch huyết đoạn trong ống bẹn qua 
mổ vi phẫu điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh (GTMTT). 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả. Những bệnh nhân được phẫu thuật 
vi phẫu điều trị GTMTT ngã bẹn tại Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM, từ tháng 01/2010 đến tháng 
10/2010. Trong cuộc mổ vi phẫu điều trị GTMTT ngã bẹn, sau khi bộc lộ thừng tinh đoạn trong ống bẹn, với hỗ 
trợ của kính hiển vi phẫu thuật, đếm số lượng và đo kích thước các động mạch tinh, các tĩnh mạch tinh và mạch 
bạch huyết. Đồng thời mô tả sự liên quan vị trí, kích thước động mạch, tĩnh mạch và mạch bạch huyết của thừng 
tinh đoạn trong ống bẹn. 
Kết quả: 35 bệnh nhân, với 11 bệnh nhân mổ giãn tĩnh mạch thừng tinh bên trái và 24 bệnh nhân mổ giãn 
tĩnh mạch thừng tinh hai bên. Tổng cộng có 59 thừng tinh được khảo sát trong mổ. 100% xác định được động 
mạch tinh hoàn và bảo tồn. 5% động mạch tinh hoàn đã chia thành 2 nhánh tại vị trí ống bẹn. 67,8% xác định 
được động mạch cơ bìu. 35,6% xác định được động mạch ống dẫn tinh. Trung bình mỗi thừng tinh có 4,4±1,3 
mạch bạch huyết được tìm thấy và bảo tồn. Trung bình mỗi thừng tinh có 8,6±2,4 tĩnh mạch được thắt. 66,1% 
động mạch tinh hoàn được tìm thấy nằm sát ngay phía sau một tĩnh mạch lớn, 33,9% động mạch tinh hoàn được 
tìm thấy nằm giữa một đám tĩnh mạch trung bình và nhỏ. 15,25% ghi nhận động mạch tinh hoàn có đường kính 
lớn từ 2-3mm, những trường hợp này cũng ghi nhận các mạch bạch huyết có đường kính lớn hơn 3mm. 
Kết luận: Sử dụng kính hiển vi phẫu thuật trong mổ thắt tĩnh mạch thừng tinh giãn ngã bẹn giúp nhận 
biết rõ ràng các mạch máu thừng tinh. Trong nghiên cứu này, 100% xác định và bảo tồn được động mạch tinh 
hoàn. Số lượng tĩnh mạch thừng tinh và mạch bạch huyết tại vị trí ống bẹn tương đối nhiều và có nhiều kích 
thước khác nhau. Dựa vào đặc điểm của tĩnh mạch thừng tinh và mạch bạch huyết có thể giúp xác định được 
động mạch tinh hoàn dễ dàng hơn. 
Từ khóa: giãn tĩnh mạch thừng tinh, giải phẫu, vi phẫu, thừng tinh. 
ABSTRACT 
STUDY OF INTRAOPERATIVE VARICOCELE ANATOMY 
IN INGUINAL MICROSURGICAL VARICOCELECTOMY 
Pham Nam Viet, Pho Minh Tin, Le Phuc Lien, Nguyen Tan Cuong, Nguyen Hoang Duc, 
Tu Thanh Tri Dung, Vu Hong Thinh, Tran Le Linh Phuong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 155 - 159 
Objectives: Describe the number and relationship of spermatic arteries, veins and lymphatics within the 
ingunal portion of the spermatic cord in men undergoing microscopic varicocelectomy. 
Material and methods: From January 2010 to October 2010, men undergoing ingunal microscopic 
∗ Phân Khoa Tiết Niệu, Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS.BS Phạm Nam Việt ĐT: 0903854222 Email: 
[email protected]
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 156 
varicocelectomy at University Medical Center at Ho Chi Minh City. During which the detailed intraoperative 
anatomy of the spermatic cord was recorded. 
Results: A total of 35 patients underwent 59 microsurgical ingunal varicocelectomies. 100% internal 
spermatic arteries were identified. The testicular artery was adherent to the posterior surface of a large internal 
spermatic vein in 66.1% of the dissections and was surrounded by a dense complex of closely adherent veins in 
33.9%. An average of 8.6 spermatic veins per spermatic cord was identified and ligated. An average of 4.4 
lymphatics per spermatic cord was identified and preserved during the dissections. 
Conclusion: Optical magnification is important to facilitate identification of lymphatics, testicular arteries 
and small internal spermatic veins. Knowledge of the relationship of spermatic arteries, veins and lymphatics 
within the ingunal portion will not only help identify and preserve internal spermatic arteries, lymphatics but 
also help identify and ligate large and small internal, external spermatic veins. 
Key words: varicocele, anatomy, microsurgery, spermatic cord. 
MỞ ĐẦU 
Giãn tĩnh mạch thừng tinh (GTMTT) là sự 
giãn và xoắn bất thường của các tĩnh mạch tinh 
đoạn đi trong thừng tinh, gặp ở 15% dân số 
nam, và 41% trong những trường hợp vô sinh 
nam(6,7). 
Trong các nguyên nhân của vô sinh nam, 
GTMTT thường gặp nhất và có thể chữa khỏi. 
Theo Gorelick và Goldstein, GTMTT là nguyên 
nhân của 35% trường hợp vô sinh nam nguyên 
phát và 75%-81% trường hợp vô sinh nam thứ 
phát(6,7). 
GTMTT có chỉ định phẫu thuật khi: GTMTT 
lớn gây khó chịu hoặc đau tức bìu kéo dài, 
GTMTT ảnh hưởng đến tinh hoàn (giảm thể tích 
tinh hoàn) hoặc GTMTT ảnh hưởng xấu đến 
tinh dịch đồ (ở nam giới trên 17 tuổi và các 
trường hợp vô sinh nam)(7). 
GTMTT thường ảnh hưởng đến tĩnh mạch 
tinh trong (tĩnh mạch tinh chính danh), kế đến là 
tĩnh mạch cơ bìu (hay còn gọi là tĩnh mạch tinh 
ngoài). Tĩnh mạch ống dẫn tinh và tĩnh mạch 
dây treo chằng bìu ít bị ảnh hưởng(4). 
Khi phẫu thuật GTMTT cần cột hết các tĩnh 
mạch tinh trong, tĩnh mạch tinh ngoài, các tĩnh 
mạch ống dẫn tinh giãn (chỉ để lại những tĩnh 
mạch của ống dẫn tinh nhỏ hơn 2mm), tránh 
làm tổn thương động mạch tinh, mạch bạch 
huyết(4,6). 
Hình 1: Hệ thống động mạch (ĐM), tĩnh mạch (TM) 
của tinh hoàn(7) 
Phẫu thuật với kính hiển vi phẫu thuật cho 
hiệu quả cao nhất với ít biến chứng và tỉ lệ tái 
phát thấp nhất. Vị trí mổ thường được áp dụng 
nhất là vị trí bẹn(6). Để đạt được kết quả phẫu 
thuật tốt cần hiểu rõ giải phẫu của GTMTT: vị 
trí, kích thước và số lượng tĩnh mạch, động 
mạch, mạch bạch huyết và mối liên quan của 
chúng với nhau trong thừng tinh đoạn trong 
ống bẹn. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 157
mô tả đặc điểm giải phẫu của tĩnh mạch, động 
mạch và bạch mạch trong mổ vi phẫu GTMTT 
đoạn trong ống bẹn. 
Hiện chưa có công trình nghiên cứu nào 
trong nước công bố về vấn đề này. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu: 
Những bệnh nhân được phẫu thuật vi phẫu 
điều trị GTMTT ngã bẹn tại Bệnh viện Đại Học Y 
Dược TP.HCM, từ tháng 01/2010 đến tháng 
10/2010. 
Phương pháp nghiên cứu: 
Phương pháp nghiên cứu 
Tiền cứu mô tả. 
Tiến hành 
Trong cuộc mổ vi phẫu điều trị GTMTT ngã 
bẹn, sau khi bộc lộ thừng tinh đoạn trong ống 
bẹn, với hỗ trợ của kính hiển vi phẫu thuật 
(chúng tôi sử dụng kính hiển vi phẫu thuật 
LEICA MS2 với độ phóng đại từ 8-12 lần): 
- Đếm số lượng động mạch tinh tìm được: 
động mạch tinh hoàn, động mạch tinh ngoài 
(động mạch cơ bìu), động mạch ống dẫn tinh. 
- Đếm số lượng và đo kích thước các tĩnh 
mạch tinh: tĩnh mạch tinh trong, tĩnh mạch tinh 
ngoài (tĩnh mạch cơ bìu), tĩnh mạch ống dẫn 
tinh. Chia kích thước tĩnh mạch thành 3 nhóm: 
nhỏ nếu đường kính ≤ 2mm, trung bình nếu 
 đường kính 2mm <đường kính< 5mm, 
lớn nếu đường kính ≥ 5mm. 
- Đếm số lượng mạch bạch huyết. 
- Mô tả sự liên quan vị trí của động mạch và 
tĩnh mạch. 
- Ghi nhận những trường hợp động mạch, 
mạch bạch huyết lớn bất thường. 
Các bước khác của phẫu thuật vẫn thực hiện 
bình thường. 
Xử lý số liệu 
Thống kê mô tả bằng số trung bình và tỉ lệ. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 1/2010 đến tháng 10/2010, chúng 
tôi nghiên cứu trong mổ 35 bệnh nhân, tuổi từ 
21 đến 38, trung bình là 28,3±4,2 tuổi. 
Với 11 bệnh nhân mổ giãn tĩnh mạch thừng 
tinh bên trái và 24 bệnh nhân mổ giãn tĩnh mạch 
thừng tinh hai bên. Như vậy tổng cộng có 59 
thừng tinh được khảo sát trong mổ. 
Động mạch 
- Có 59 trường hợp (100%) xác định được 
động mạch tinh hoàn và bảo tồn. Trong đó có 3 
trường hợp (5%) động mạch tinh hoàn đã chia 
thành 2 nhánh tại vị trí ống bẹn. 
- Có 40 trường hợp (67,8%) xác định được 
động mạch cơ bìu và bảo tồn. 
- Có 21 trường hợp (35,6%) xác định được 
động mạch ống dẫn tinh và bảo tồn. 
Mạch bạch huyết 
- Trung bình mỗi thừng tinh có 4,4±1,3 mạch 
bạch huyết được tìm thấy và bảo tồn. 
Tĩnh mạch 
- Trung bình mỗi thừng tinh có 8,6±2,4 tĩnh 
mạch được thắt. 
- Tĩnh mạch có đường kính ≥ 5mm (lớn): 
trung bình là 1,6 tĩnh mạch. 
- Tĩnh mạch có đường kính > 2mm và < 5mm 
(trung bình): trung bình là 3,2 tĩnh mạch. 
- Tĩnh mạch có đường kính ≤ 2mm (nhỏ): 
trung bình là 4,1 tĩnh mạch. 
Liên quan động mạch và tĩnh mạch: 
- Có 39 trường hợp (66,1%) động mạch tinh 
hoàn được tìm thấy nằm sát ngay phía sau một 
tĩnh mạch lớn, 20 trường hợp (33,9%) động 
mạch tinh hoàn được tìm thấy nằm giữa một 
đám tĩnh mạch trung bình và nhỏ. 
Liên quan động mạch và mạch bạch huyết 
- Có 9 trường hợp (15,25%) ghi nhận động 
mạch tinh hoàn có đường kính lớn từ 2-3mm. 
Những trường hợp này cũng ghi nhận các mạch 
bạch huyết có đường kính lớn hơn 3mm. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 158 
BÀN LUẬN 
Nguyên tắc khi phẫu thuật GTMTT, cần thắt 
hết các tĩnh mạch tinh trong, tĩnh mạch tinh 
ngoài và các tĩnh mạch ống dẫn tinh để tránh tái 
phát (chỉ để lại những tĩnh mạch của ống dẫn 
tinh nhỏ hơn 2mm là đủ dẫn lưu máu tĩnh mạch 
trở về), bảo tồn động mạch (bao gồm động mạch 
tinh hoàn, động mạch cơ bìu và động mạch ống 
dẫn tinh) và bảo tồn mạch bạch huyết (nếu cột 
mạch bạch huyết sẽ gây biến chứng tràn dịch 
tinh mạc)(4,6). Ngoài ra, một số tác giả (ví dụ như 
Marc Goldstein) còn đề nghị cần phải tìm và thắt 
tĩnh mạch dây chằng bìu để giảm tỉ lệ tái phát. 
Để tìm tĩnh mạch dây chằng bìu cần kéo tinh 
hoàn lên qua vết mổ ở bẹn(1,4). Tuy nhiên, điều 
này không bắt buộc vì nhiều tác giả khác không 
thắt tĩnh mạch dây chằng bìu vẫn có kết quả tái 
phát rất thấp dưới 1%(2,6). 
Sử dụng kính hiển vi phẫu thuật giúp phóng 
đại gấp nhiều lần các cấu trúc giải phẫu nhỏ mà 
mắt thường khó thấy rõ. Chúng tôi sử dụng 
kính hiển vi phẫu thuật LEICA MS2 với độ 
phóng đại từ 8-12 lần. 100% trường hợp chúng 
tôi xác định được động mạch tinh hoàn và bảo 
tồn, trong đó có 3 trường hợp (5%) động mạch 
tinh hoàn đã chia thành 2 nhánh tại vị trí ống 
bẹn. Nghiên cứu của Jarow và cộng sự cho thấy 
tại vị trí ống bẹn, động mạch tinh hoàn có thể 
phân chia sớm thành 2 hoặc 3 nhánh(5). Ngoài ra, 
trong nghiên cứu của chúng tôi có 40 trường 
hợp (67,8%) xác định được động mạch cơ bìu và 
21 trường hợp (35,6%) xác định được động mạch 
ống dẫn tinh. 
Về số lượng tĩnh mạch tinh tìm thấy và thắt, 
trong nghiên cứu của chúng tôi, trung bình mỗi 
thừng tinh có 8,6 ± 2,4 tĩnh mạch được thắt. 
Trong đó số tĩnh mạch có đường kính ≥ 5mm 
trung bình là 1,6 tĩnh mạch. Trong nghiên cứu 
của Hopps và cộng sự, số tĩnh mạch tinh trong 
tại vị trí bẹn trung bình là 8,7(4). 
Kết quả của chúng tôi, trung bình mỗi thừng 
tinh có 4,4 ± 1,3 mạch bạch huyết được tìm thấy 
và bảo tồn. Ngoài ra, chúng tôi còn ghi nhận mối 
liên quan giữa động mạch và mạch bạch huyết. 
Có 9 trường hợp (15,25%) ghi nhận động mạch 
tinh hoàn có đường kính lớn từ 2-3mm, những 
trường hợp này cũng ghi nhận các mạch bạch 
huyết có đường kính lớn hơn 3mm. Không thấy 
các tác giả khác mô tả về sự tương quan này. 
Liên quan vị trí giữa động mạch tinh hoàn 
và các tĩnh mạch thừng tinh đã được mô tả rất 
chi tiết bởi Ergun và cộng sự(3). Điều này giúp 
ích rất nhiều cho việc tìm động mạch trong mổ. 
Trong nghiên cứu của Beck và cộng sự ghi nhận 
50% động mạch tinh hoàn được tìm thấy nằm 
sát ngay phía sau một tĩnh mạch lớn, 30% động 
mạch tinh hoàn được tìm thấy nằm giữa một 
đám tĩnh mạch trung bình và nhỏ(1). Chúng tôi, 
trong nghiên cứu này ghi nhận 39 trường hợp 
(66,1%) động mạch tinh hoàn được tìm thấy 
nằm sát ngay phía sau một tĩnh mạch lớn, 20 
trường hợp (33,9%) động mạch tinh hoàn được 
tìm thấy nằm giữa một đám tĩnh mạch trung 
bình và nhỏ. 
KẾT LUẬN 
Sử dụng kính hiển vi phẫu thuật trong mổ 
thắt tĩnh mạch thừng tinh giãn ngã bẹn giúp 
nhận biết rõ ràng các mạch máu thừng tinh. 
Trong nghiên cứu này, 100% xác định và bảo tồn 
được động mạch tinh hoàn. Số lượng tĩnh mạch 
thừng tinh và mạch bạch huyết tại vị trí ống bẹn 
tương đối nhiều và có nhiều kích thước khác 
nhau. Dựa vào đặc điểm của tĩnh mạch thừng 
tinh, mạch bạch huyết và mối liên quan của 
chúng với động mạch tinh hoàn có thể giúp xác 
định được động mạch tinh hoàn dễ dàng hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Beck EM, Schlegel PN, Goldstein M (1992), "Intraoperative 
varicocele anatomy: a macroscopic and microscopic study". J 
Urol, 148(4), 1190-1194. 
2. Carbone DJ, Merhoff V (2003), "Complication rate of 
microsurgical varicocele ligation without delivery of the 
testis". Arch Androl, 49(3), 201-204. 
3. Ergun S., Bruns T., Soyka A., Tauber R. (1997), 
"Angioarchitecture of the human spermatic cord". Cell Tissue 
Res, 288(2), 391-398. 
4. Hopps, C. V., Lemer, M. L., Schlegel, P. N., Goldstein, M. 
(2003), "Intraoperative varicocele anatomy: a microscopic 
study of the inguinal versus subinguinal approach". J Urol, 
170(6 Pt 1), 2366-2370. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 159
5. Jarow, J. P., Ogle, A., Kaspar, J., Hopkins, M. (1992), 
"Testicular artery ramification within the inguinal canal". J 
Urol, 147(5), 1290-1292. 
6. Lipshultz L.T., Thomas A.J., Khera M. (2007). Surgical 
Management of Male Infertility. In A. J. Wein (Ed.), Campbell - 
Walsh Urology. (9th ed., pp. 654-717). Saunders Elsevier, 
Philadelphia. 
7. Sigman M., Jarow J.P. (2007). Male Infertility. In A. J. Wein 
(Ed.), Campbell - Walsh Urology. (9th ed., pp. 609-653). 
Saunders Elsevier, Philadelphia.