Mục tiêu: Viêm túi thừa đại tràng (VTTĐT) là bệnh hiếm gặp ở Việt Nam, tuy nhiên hiện nay tần số mắc
bệnh ngày càng nhiều. Nghiên cứu này mô tả đặc điểm lâm sàng, khảo sát độ nhạy của siêu âm và CT trong chẩn
đoán và đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật điều trị VTTĐT.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 41 trường hợp VTTĐT được phẫu thuật tại Bệnh viện
Nhân dân Gia Định từ 01.01.2007 đến 31.12.2010.
Kết quả: Trong 41 trường hợp, có 5 VTTĐT trái và 36 VTTĐT phải. Tuổi trung bình mắc bệnh là 38,8 tuổi
(thay đổi 15-80), bệnh nhân VTTĐT phải có tuổi trẻ hơn so với VTTĐT trái (tuổi trung bình là 36,0 so với 58,6).
Tỉ lệ nam/nữ là 29/12. Tất cả bệnh nhân nhập viện vì đau bụng: VTTĐT phải thường đau liên tục, VTTĐT trái
thường đau quặn cơn trên nền âm ỉ. Độ nhạy của siêu âm là 22,0% và của CT là 69,2%. Chỉ có 26,8% trường
hợp được chẩn đoán đúng trước mổ. Phương pháp cắt túi thừa (± cắt ruột thừa) thực hiện trong 75,6% trường
hợp và không có trường hợp nào có biến chứng và tử vong.
Kết luận: Tần số mắc bệnh VTTĐT ngày càng tăng, trong đó VTTĐT phải chiếm ưu thế và thường bị chẩn
đoán lầm với viêm ruột thừa. Độ nhạy của siêu âm còn thấp, cần thực hiện CT cho những trường hợp nghi ngờ
do có độ nhạy và chính xác cao. Phương pháp phẫu thuật VTTĐT rất đa dạng, phẫu thuật cắt túi thừa và cắt ruột
thừa kèm theo là một phẫu thuật an toàn, vừa đủ và có thể thực hiện bằng phẫu thuật nội soi (PTNS) ngã bụng ở
phần lớn trường hợp.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh và kết quả phẫu thuật viêm túi thừa đại tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 59
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH
VÀ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT VIÊM TÚI THỪA ĐẠI TRÀNG
Lý Minh Tùng*, Nguyễn Văn Hải**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Viêm túi thừa đại tràng (VTTĐT) là bệnh hiếm gặp ở Việt Nam, tuy nhiên hiện nay tần số mắc
bệnh ngày càng nhiều. Nghiên cứu này mô tả đặc điểm lâm sàng, khảo sát độ nhạy của siêu âm và CT trong chẩn
đoán và đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật điều trị VTTĐT.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 41 trường hợp VTTĐT được phẫu thuật tại Bệnh viện
Nhân dân Gia Định từ 01.01.2007 đến 31.12.2010.
Kết quả: Trong 41 trường hợp, có 5 VTTĐT trái và 36 VTTĐT phải. Tuổi trung bình mắc bệnh là 38,8 tuổi
(thay đổi 15-80), bệnh nhân VTTĐT phải có tuổi trẻ hơn so với VTTĐT trái (tuổi trung bình là 36,0 so với 58,6).
Tỉ lệ nam/nữ là 29/12. Tất cả bệnh nhân nhập viện vì đau bụng: VTTĐT phải thường đau liên tục, VTTĐT trái
thường đau quặn cơn trên nền âm ỉ. Độ nhạy của siêu âm là 22,0% và của CT là 69,2%. Chỉ có 26,8% trường
hợp được chẩn đoán đúng trước mổ. Phương pháp cắt túi thừa (± cắt ruột thừa) thực hiện trong 75,6% trường
hợp và không có trường hợp nào có biến chứng và tử vong.
Kết luận: Tần số mắc bệnh VTTĐT ngày càng tăng, trong đó VTTĐT phải chiếm ưu thế và thường bị chẩn
đoán lầm với viêm ruột thừa. Độ nhạy của siêu âm còn thấp, cần thực hiện CT cho những trường hợp nghi ngờ
do có độ nhạy và chính xác cao. Phương pháp phẫu thuật VTTĐT rất đa dạng, phẫu thuật cắt túi thừa và cắt ruột
thừa kèm theo là một phẫu thuật an toàn, vừa đủ và có thể thực hiện bằng phẫu thuật nội soi (PTNS) ngã bụng ở
phần lớn trường hợp.
Từ khóa: Túi thừa, túi thừa đại tràng, viêm túi thừa đại tràng.
ABSTRACT
CHARACTERISTICS, IMAGING AND SURGICAL RESULTS OF DIVERTICULITIS
Ly Minh Tung, Nguyen Van Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 59 -
65
Purpose: to describe clinical characteristics, sensitivity of ultrasound and CT scan, and to evaluate the
results of surgical treament of colonic diverticulitis.
Patients and methods: A retrospective review of 41 patients who underwent operations for colonic
diverticulitis from January 2007 to December 2010 at Gia Dinh People Hospital was performed (all
diagnosis were confirmed by anapathological results).
Result: Thirty-six patients had right diverticulitis (RD) and 5 patients had left diverticulitis (LD). The
mean age was 38.8 years (range, 15-80) and patients with RD were significantly younger (mean age 36.0
years vs 58.6 years). The male:female ratio was 29:12. All patients admitted to hospital with abdominal
pain. Majority of patients with RD had continuous pain while patients with LD usually had colicky pain.
The ultrasound and CT sensitivity of colonic diverticulitis were 22.0% and 69.2% respectively. Only 11
patients (26.8%) had accurate preoperative diagnosis. Diverticulectomy (with/without appendectomy) was
performed in 31 patients (75.6%) without any mortality and morbidity.
Bộ môn Ngoại Đại Học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Nguyễn Văn Hải. ĐT: 0903602989 Email: bsvanhai@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 60
Conclusion: The incidence of colonic diverticulitis was increasing, RD was predominant and usually
misdiagnosed as appendicitis. The ultrasound sensitivity was low, therefore, CT should be performed in case
of suspected colonic diverticulitis due to its high sensitivity and accuracy. Among various surgical
procedures for colonic diverticulitis, diverticulectomy, which could be performed by laparoscopy in most
cases, should be considered as a safe and adequate treatment.
Key words: Diverticulosis, diverticulitis, colonic diverticulitis.
MỞ ĐẦU
Túi thừa đại tràng là một cấu trúc dạng túi
trồi ra bất thường từ thành đại tràng. Bệnh túi
thừa đại tràng gồm 3 thể bệnh là túi thừa đại
tràng không triệu chứng, viêm túi thừa đại tràng
(VTTĐT) và xuất huyết túi thừa đại tràng.
VTTĐT chỉ chiếm 15-25% trong bệnh túi thừa
đại tràng nhưng có nhiều biến chứng nhất và
gây nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều
trị(23). Bệnh túi thừa đại tràng nói chung và
VTTĐT nói riêng rất phổ biến ở các nước
phương Tây, bệnh thường gặp ở người lớn tuổi
và vị trí túi thừa thường nằm ở đại tràng (ĐT)
trái, đặc biệt là đại tràng xích ma(19). Tỉ lệ mắc
bệnh VTTĐT ở các nước châu Á thấp hơn, tuy
nhiên các nghiên cứu gần đây đã cho thấy tần số
mắc bệnh ngày càng tăng và đặc điểm của
VTTĐT cũng khác so với các nước phương Tây
như túi thừa ở ĐT phải chiếm ưu thế và tuổi
trung bình mắc bệnh thấp hơn(10,15,20).
Hiện nay, VTTĐT ngày càng thường gặp ở
nước ta. Tuy nhiên, trong nước hiện chưa có
nhiều nghiên cứu về bệnh VTTĐT. Nghiên cứu
này được thực hiện nhằm mô tả đặc điểm lâm
sàng, đánh giá khả năng chẩn đoán bằng siêu
âm, CT và mô tả kết quả điều trị VTTĐT.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu hồ sơ của 41 bệnh nhân
được chẩn đoán VTTĐT và phẫu thuật tại khoa
Ngoại Tiêu hóa của Bệnh viện Nhân dân Gia
Định trong 4 năm từ 01.01.2007 đến 31.12.2010.
Tất cả 41 bệnh nhân đều có kết quả giải phẫu
bệnh là VTTĐT.
Các thông tin được thu thập gồm tuổi, giới,
phân bố túi thừa, triệu chứng lâm sàng, công
thức bạch cầu, kết quả siêu âm, kết quả CT, chẩn
đoán trước mổ, chẩn đoán sau mổ, phương
pháp phẫu thuật, thời gian phẫu thuật, biến
chứng và cách xử trí biến chứng, thời gian nằm
viện.
Số liệu thu thập được thống kê bằng phần
mềm SPSS Statistics 17.0. So sánh các số trung
bình bằng phép kiểm T-student, so sánh các tỉ lệ
bằng phép kiểm chi bình phương. Giá trị P <
0,05 xem như có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung và phân bố túi thừa
Trong 41 trường hợp, có 36 trường hợp
VTTĐT phải (21 ở manh tràng và 6 ở ĐT lên) và
5 trường hợp VTTĐT trái (đều ở ĐT xích ma). Tỉ
lệ tương ứng là 87,8% và 12,2%. Tần số mắc
bệnh tăng dần theo thời gian.
Biểu đồ 1. Tần số mắc bệnh VTTĐT.
Tuổi trung bình mắc bệnh là 38,8 ± 14,5
tuổi (15-80 tuổi), lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất
là 31-50 tuổi. Tuổi mắc bệnh trung bình ở
VTTĐT trái lớn hơn VTTĐT phải có ý nghĩa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 61
thống kê. Bệnh nhân nam chiếm ưu thế hơn, tỉ
lệ nam/nữ là 29/12 (Bảng 1).
Bảng 1. Phân bố tuổi và giới tính.
VTTĐT phải
(n=36)
VTTĐT trái
(n=5)
Giá trị P
Tuổi 36 (15-62) 58,6 (44-80) <0,001
Nam:nữ 25/11 4/1 0,627
Đặc điểm lâm sàng
Toàn bộ 41 bệnh nhân nhập viện vì triệu
chứng đau bụng. Thời gian trung bình từ khi
đau bụng đến khi nhập viện là 2,32 ± 1,95 ngày
(1-10 ngày). Kiểu đau liên tục chiếm ưu thế ở
bệnh nhân VTTĐT phải trong khi kiểu đau bụng
quặn cơn trên nền âm ỉ xảy ra ở hầu hết bệnh
nhân VTTĐT trái. Sự khác biệt về 2 yếu tố nêu
trên khi so sánh giữa 2 nhóm VTTĐT trái và
phải có ý nghĩa thống kê. Đề kháng thành bụng
có ở 37 bệnh nhân (90,2%). Chỉ 5 bệnh nhân
(12,2%) sờ được khối giả u.
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng VTTĐT.
VTTĐT phải
(n=36)
VTTĐT trái
(n=5)
Giá trị
P
Thời gian đau
(ngày)
1,94 (1-7) 5,0 (1-10) 0,001*
Đề kháng 33 (91,7%) 4 (80%) 0,41
Sờ thấy khối u 3 (8,3%) 2 (40%) 0,043*
Sốt (≥38
0
C) 21 (58,3%) 2 (40%) 0,439
Nhiệt độ (0C) 38,1 (37-39,6) 37,7 (37-39) 0,291
BC cao (≥10 K/uL) 30 (83.3%) 5 (100%) 0,323
Số lượng BC (K/uL) 13,47 (7,48-
23.8)
15,10 (10,6-
22,5)
0,388
* P<0,05: Có ý nghĩa thống kê.
Có 23 bệnh nhân (56,1%) có triệu chứng sốt
(≥ 380C), nhiệt độ trung bình là 38,0 ± 0,70C (37-
39,60C). Tỉ lệ bệnh nhân sốt trên 390C chỉ chiếm
14,6%. 35 bệnh nhân có bạch cầu cao (85,4%), số
lượng bạch cầu trung bình là 13,67 ± 3,89 K/uL
(7,48-23,80 K/uL). Nhiệt độ và số bạch cầu trung
bình không khác nhau giữa 2 nhóm VTTĐT trái
và phải.
Siêu âm và CT
Toàn bộ 41 bệnh nhân được thực hiện siêu
âm. Tuy nhiên, siêu âm chỉ chẩn đoán đúng
VTTĐT ở 9 trường hợp nên độ nhạy là 22,0%.
Trong 32 trường hợp còn lại, siêu âm chẩn đoán
VRT 10 trường hợp (24,4%), u ĐT 2 trường hợp
(4,9%), không xác định được tổn thương 18
trường hợp (43,8%) và siêu âm bình thường 2
trường hợp (4,9%).
CT chỉ thực hiện ở 13 bệnh nhân. CT chẩn
đoán đúng VTTĐT trong 8 trường hợp, độ nhạy
là 61,5%. 5 trường hợp còn lại được chẩn đoán
là: viêm ruột thừa 2 trường hợp (15,4%), u đại
tràng 1 trường hợp (7,7%), không xác định được
tổn thương 2 trường hợp (15,4%). Có 2 trường
hợp siêu âm không xác định được tổn thương
nhưng được CT chẩn đoán là VTTĐT.
Kết quả phẫu thuật
Chỉ 11 bệnh nhân (26,8%) được chẩn đoán
đúng trước mổ là VTTĐT. Trong đó, lâm sàng
chỉ chẩn đoán được 2 trường hợp, 9 trường hợp
còn lại phải nhờ vào các phương tiện chẩn đoán
hình ảnh. Ở các trường hợp chẩn đoán không
chính xác, tất cả các trường hợp VTTĐT phải bị
chẩn đoán lầm với VRT còn tất cả các trường
hợp VTTĐT trái chẩn đoán lầm với u ĐT.
Bảng 3. Chẩn đoán trước mổ.
VTTĐT phải
(n=36)
VTTĐT trái
(n=5)
VTTĐT 8 (22,2%) 3 (60%)
VRT 28 (77,8%)
U ĐT 0 2 (40%)
Về chẩn đoán sau mổ: có 22 trường hợp
(53,7%) VTTĐT không biến chứng, 15 trường
hợp (36,6%) có biến chứng áp xe và 4 trường
hợp (9,8%) có biến chứng VPM. Tất cả các
trường hợp VTTĐT trái đều có biến chứng.
Trong 22 trường hợp VTTĐT phải không biến
chứng có 3 trường hợp có chỉ định mổ do tái
phát nhiều lần và 19 (46,3%) trường hợp bị mổ
do chẩn đoán lầm là VRT. Đây là số bệnh
nhân có thể điều trị nội.
Bảng 4. Chẩn đoán sau mổ.
VTTĐT phải
(n=36)
VTTĐT trái
(n=5)
VTTĐT không biến chứng 22 (61,1%) 0
Áp xe túi thừa 11 (30,6%) 4 (80%)
VPM túi thừa 3 (8,3%) 1 (20%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 62
Về phương pháp phẫu thuật, ở 36 trường
hợp VTTĐT phải, thực hiện cắt túi thừa (± cắt
ruột thừa kèm theo) 30 trường hợp, cắt hồi
manh tràng nối tận tận thì đầu 6 trường hợp. Ở
5 trường hợp VTTĐT trái, cắt túi thừa 1 trường
hợp, cắt ĐT xích ma nối tận tận 2 trường hợp và
làm phẫu thuật Hartmann 2 trường hợp. Có 22
trường hợp thực hiện PTNS: 19 trường hợp cắt
túi thừa và 3 trường hợp cắt hồi manh tràng.
Không có trường hợp VTTĐT trái nào được
thực hiện PTNS. Thời gian phẫu thuật trung
bình là 123 phút (35-235 phút) và thời gian nằm
viện trung bình là 8,5 ngày (4-16 ngày). Có 2
trường hợp có biến chứng sau mổ: 1 trường hợp
nhiễm khuẩn vết mổ sau cắt ĐT xích ma nối tận
tận, 1 trường hợp bán tắc ruột sau phẫu thuật
Hartmann. Cả hai đều được điều trị nội cho kết
quả tốt. Không có ca nào tử vong. Trong các
phương pháp, phương pháp cắt túi thừa có thời
gian phẫu thuật và nằm viện ngắn nhất (tương
ứng là 115,0 phút và 7,8 ngày), không có biến
chứng và tử vong. Phương pháp này cũng có
thể thực hiện bằng PTNS ở phần lớn trường
hợp.
BÀN LUẬN
Hàng loạt các nghiên cứu gần đây ở những
quốc gia và khu vực có nền kinh tế phát triển và
lối sống giống phương Tây như Hàn Quốc,
Nhật Bản, Singapore, Đài Loan Hongkong
cho thấy tần số mắc bệnh VTTĐT ngày càng
tăng(7,13,15,20,22). Tương tự các nghiên cứu trên, tần
số bệnh VTTĐT trong nghiên cứu của chúng tôi
tăng dần theo năm, tần số mắc bệnh ở năm 2010
cao gấp 4 lần so với năm 2007 (17 so với 4).
Nguyên nhân tăng tần số mắc bệnh là do
phương tiện chẩn đoán ngày càng tiên tiến và
ngày càng nhiều người châu Á tiếp cận lối sống
và chế độ ăn giống phương Tây với nhiều đạm
và ít chất xơ(10). Đối với các nước phương Tây,
tuổi càng cao tỉ lệ mắc bệnh túi thừa ĐT càng
nhiều: Tỉ lệ mắc bệnh ở 45 tuổi là 5-10% tăng lên
80% ở 80 tuổi. Trái lại, đa số các nghiên cứu cho
rằng tần số mắc bệnh VTTĐT ở châu Á không
liên quan với tuổi và tuổi trung bình mắc bệnh
thường nhỏ hơn so với phương Tây(7,9). Mặt
khác, không chỉ ở châu Á mà cả phương Tây
cũng ghi nhận sự khác biệt tuổi giữa hai nhóm
VTTĐT phải và trái(10,19). Kết quả của chúng tôi
cũng phù hợp với nhận định trên. Về phân bố
giới tính, theo nghiên cứu của chúng tôi, số
lượng BN nam nhiều hơn so với BN nữ, tỉ lệ
nam/nữ là 2,42. Tỉ lệ này tương tự với các
nghiên cứu ở châu Á(7,9,20).
Vị trí túi thừa ở ĐT phải là một đặc điểm nổi
bật của bệnh VTTĐT ở châu Á. Trong khi tỉ lệ
VTTĐT phải ở châu Âu chỉ chiếm khoảng 4%(5)
thì ở châu Á, tỉ lệ này lớn hơn 50%. Ở nghiên
cứu của chúng tôi, tỉ lệ này là 87,8%. Theo một
số nghiên cứu ở phương Tây, VTTĐT phải
thường phát hiện ở người trẻ tuổi và tỉ lệ phát
hiện bệnh hàng năm vẫn ổn định (không tăng
theo tuổi), nên giả thuyết ở phương Tây cho
rằng túi thừa ĐT phải là do nguyên nhân bẩm
sinh(19). Theo các nghiên cứu được thực hiện ở
Nhật, dù tỉ lệ bệnh túi thừa đại tràng tăng theo
thời gian, nhóm ĐT phải vẫn chiếm ưu thế và
tăng dần. Do đó, người ta tin rằng ở chủng tộc
châu Á dù túi thừa do nguyên nhân mắc phải
thì vẫn nằm ở ĐT phải(16). Hiện nay người ta cho
rằng ở các nước châu Á, nguyên nhân túi thừa
hình thành ưu thế ở ĐT phải là do gen qui
định(10).
Tất cả bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
của chúng tôi đều nhập viện vì triệu chứng
đau bụng. Thời gian đau trung bình là 2,32
ngày. Sốt có ở 56,1% bệnh nhân. Số liệu này
tương ứng với các giả phương Tây, nhưng lại
cao hơn so với số liệu của các tác giả châu Á
(từ 21 – 35%)(7,11,15). Tỉ lệ bệnh nhân có bạch
cầu cao (≥ 10K/ul) chúng tôi ghi nhận được là
85,4% với số bạch cầu trung bình là 13,67 ±
3,89 K/uL. Hầu hết các tác giả đồng ý rằng rất
khó phân biệt VTTĐT phải và VRT nếu chỉ
dựa vào triệu chứng lâm sàng. Lee và Shin(11,18)
với số liệu bạch cầu trung bình là 10,8 và 10,9
K/uL nhận xét rằng bạch cầu trung bình ở
nhóm VTTĐT phải của họ thấp hơn ở nhóm
VRT (11,5 – 13 K/mL) và đề nghị xem đó là
một gợi ý để chẩn đoán phân biệt. Tác giả
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 63
Chen(2) cho rằng có thể phân biệt VTTĐT phải
và VRT dựa vào VTTĐT có triệu chứng đề
kháng thành bụng, sốt và số lượng bạch cầu
thấp hơn. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi
không phản ánh đúng nhận định đó.
Siêu âm và CT là phương tiện chẩn đoán
hình ảnh có giá trị trong VTTĐT. Nhiều nghiên
cứu đã được thực hiện nhằm phát hiện những
hình ảnh đặc trưng và nhằm đánh giá vai trò
của siêu âm trong VTTĐT. Những nghiên cứu
gần đây của siêu âm về VTTĐT hướng đến việc
xác định những hình ảnh đặc hiệu giúp chẩn
đoán phân biệt VTTĐT phải và VRT cấp nhằm
nâng cao độ chính xác trong chẩn đoán bệnh(3).
Độ nhạy của chúng tôi so với các nghiên cứu là
không cao. Số liệu của chúng tôi là 21,95%. Dù
so sánh độ nhạy theo VTTĐT trái hay phải, số
liệu của chúng tôi vẫn thấp hơn so với nghiên
cứu khác như Chou(3), Hollerweger(6) với số liệu
tương ứng là 91,3% và 77%. Độ nhạy thấp có thể
do VTTĐT vẫn được xem là một bệnh hiếm ở
Việt Nam, nên khả năng bác sĩ siêu âm ít nghĩ
đến chẩn đoán VTTĐT. Mặc khác, mẫu của
chúng tôi nhỏ và chỉ đánh giá ở những bệnh
nhân được phẫu thuật nên có thể số liệu thu
được còn nhiều hạn chế. Nếu siêu âm được xem
như là phương tiện chẩn đoán hình ảnh đầu tiên
cần thực hiện ở bệnh nhân nghi ngờ VTTĐT thì
CT được xem như là phương tiện chính xác nhất
giúp chẩn đoán xác định và đánh giá tổn
thương. CT có độ nhạy và độ chính xác là 97%
và 99%(1). Độ nhạy của CT theo nghiên cứu của
chúng tôi là 69,23%. Tuy số liệu của chúng tôi
còn thấp nhưng vẫn gợi ý rằng đây là phương
tiện tốt nhất cần thực hiện tiếp theo cho những
trường hợp nghi ngờ VTTĐT trên lâm sàng hoặc
siêu âm.
Theo số liệu của chúng tôi, tỉ lệ chẩn đoán
đúng trước mổ chỉ đạt 26,8%. Trong đó, VTTĐT
trái được chẩn đoán đúng 60% trong khi VTTĐT
phải chỉ đúng 22,2%. Đáng chú ý là có đến
77,8% bệnh nhân VTTĐT phải được phẫu thuật
với chẩn đoán trước mổ là VRT cấp. Giảm tỉ lệ
chẩn đoán lầm rất có ý nghĩa vì đa số VTTĐT ở
nhóm chẩn đoán lầm này chỉ là VTTĐT không
biến chứng và có thể điều trị bảo tồn với khả
năng thành công là 80-90%. Trong những
trường hợp chẩn đoán lầm của chúng tôi,
VTTĐT đơn giản chiếm 70%. Nhằm giảm tỉ lệ
này, một số tác giả như Leung và Markham(13,14)
có đưa ra những gợi ý giúp chẩn đoán phân biệt
VTTĐT với VRT cấp như VTTĐT có thời gian
đau lâu hơn trong khi triệu chứng nhiễm khuẩn
ít rầm rộ hơn, ít nôn ói hơn, bạch cầu ít cao
hơn.... Tuy nhiên cho đến nay, những so sánh
trên vẫn chưa có bằng chứng có độ tin cậy cao.
Kinh nghiệm của tác giả Matsushima(15) (tỉ lệ
chẩn đoán lầm là 9,1%) là thực hiện siêu âm kĩ
để nâng độ nhạy của siêu âm lên và thực hiện
CT khi có nghi ngờ. Nếu theo nghiên cứu của
chúng tôi, siêu âm được áp dụng rộng rãi
nhưng độ nhạy còn thấp, CT có độ nhạy cao
hơn nhưng hiện nay vẫn chưa thể áp dụng rộng
rãi vì giá thành còn cao, tỉ lệ chẩn đoán lầm dự
đoán sẽ tiếp tục tăng cao khi tần suất mắc bệnh
ngày càng tăng.
Hầu hết những khuyến cáo và phác đồ điều
trị hiện nay chỉ tập trung giải quyết VTTĐT trái
theo kinh nghiệm phương Tây. Sự đồng thuận
về điều trị VTTĐT ở châu Á vẫn chưa được thực
hiện. Hầu hết các nghiên cứu cho rằng điều trị
nội khoa ở những bệnh nhân VTTĐT phải đơn
giản giống như khuyến cáo ở ĐT trái vẫn phù
hợp(7,15). Tuy nhiên với những trường hợp phát
hiện VTTĐT phải trong mổ (với chẩn đoán lầm
là VRT), lựa chọn phương pháp mổ thích hợp
vẫn còn nhiều bàn cãi. Cắt ĐT phải thì quá lớn,
nếu chỉ cắt ruột thừa và điều trị nội khoa thì
bệnh nhân vẫn đã phải chịu một cuộc mổ mà
chưa giải quyết được tổn thương, khả năng tái
phát về sau là 4,3% với tỉ lệ VTTĐT biến chứng
của lần 2 là 60%(11,17). Tác giả Fang cho rằng cắt
ĐT phải là một điều trị hợp lí vì theo nghiên cứu
của ông, những bệnh nhân chỉ cắt túi thừa có tỉ
lệ tái phát cao(4). Tuy nhiên theo xu hướng ngày
nay, các phẫu thuật viên hướng đến những
phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn và an toàn.
Nhiều tác giả đề nghị xem phẫu thuật chỉ cắt túi
thừa là phương pháp điều trị đúng mức với
VTTĐT phải, đồng ý với quan điểm trên ở châu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 64
Á có tác giả Lee, Tan(12,20) và châu Âu có tác giả
Hildebrand, Lane(5,8). Ở số liệu của chúng tôi, tỉ
lệ thực hiện phẫu thuật cắt túi thừa chiếm đa số
với tỉ lệ 75,6%, trong đó 61,3% được thực hiện
bằng PTNS. Tất cả các ca đều được thực hiện an
toàn, không có tai biến trong mổ và biến chứng
sớm sau mổ với thời gian mổ trung bình là 115
phút. Điều này chứng minh đây là một phương
pháp mổ an toàn, góp phần ủng hộ cho những
quan
điểm trên.
Tuy nhiên, do đặc điểm túi thừa đại tràng
phải là xuất hiện ở những người trẻ tuổi, thời
gian sống còn lại dài làm tăng khả năng tái phát
trong tương lai. Đặc biệt ở những bệnh nhân đa
túi thừa, thương tổn vẫn còn sau khi phẫu thuật.
Do đó, tác giả Lane, Lee và Tan(8,12,21) cho rằng
phương pháp cắt túi thừa và cắt ruột thừa kèm
theo chỉ nên thực hiện ở những bệnh nhân có túi
thừa đơn độc. Tác giả Lee qua các nghiên cứu
cũng kết luận đây là một phẫu thuật thích hợp
trong cấp cứu hoặc trong trường hợp chẩn đoán
lầm là VRT vì là một phẫu thuật khá đơn giản, ít
tai biến và biến chứng, tỉ lệ VTTĐT tái phát cũng
không cao hơn so với cắt đại tràng phải. Tác giả
Lee cũng khuyến cáo không áp dụng phương
pháp phẫu thuật này trong trường hợp nghi ngờ
tổn thương là khối u ác tính, VTTĐT có biến
chứng nặng và có nhiều túi thừa viêm cùng
lúc(11,12). Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi,
tất cả các ca áp dụng phương pháp này đều là
phẫu thuật cấp cứu nhưng đều không có biến
chứng, trong đó có 26 ca túi thừa đơn độc
(89,7%) và 3 ca đa túi thừa (10,3%). Các ca đa túi
thừa chỉ có một túi thừa viêm, các túi thừa khác
bình thường. Những kết quả thu được của
chúng tôi đều ủng hộ quan điểm của tác giả Lee.
Tuy nhiên, nghiên cứu c