Mục tiêu: U tuyến yên chiếm khoảng 15-25% u trong sọ và là một trong 4 loại u hay gặp nhất. Mặc dù đây
là loại u không hiếm gặp ở Việt Nam nhưng còn ít nghiên cứu đề cập tới, chính vì vậy chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này nhằm mục đích: mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh u tuyến yên tăng tiết prolactine.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên 66 bệnh nhân u tuyến yên tăng tiết
prolactine được phẫu thuật bằng đường mổ qua xoang bướm tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Bệnh viện Hữu
nghị Việt Đức từ 1/2009 tới tháng 12/2009.
Kết quả: Trong thời gian từ 1/1/2009 tới 30/12/2009, chúng tôi đã chọn lọc được 66 bệnh nhân u tuyến yên
tăng tiết prolactine đáp ứng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu (chọn lọc từ 140 bệnh nhân u tuyến yên). Tỷ lệ u tuyến
yên tăng tiết prolactine là 47,14%. Trong số đó có 48 bệnh nhân nữ (72,72%) và 18 nam (27,28%). Tuổi thấp
nhất là 17 tuổi và cao nhất là 56 tuổi, trung bình 35±2,5. Trong số 66 bệnh nhân: 10 bệnh nhân điều trị nội thất
bại, 4 bệnh nhân đã phẫu thuật nhưng tái phát và 1 bệnh nhân điều trị bằng xạ trị.
Kết luận: U tuyến yên tăng tiết prolactine là loại u chiếm phần lớn khối u tuyến yên. Điều trị phẫu thuật là
phương pháp điều trị an toàn nhưng nên phối hợp với điều trị nội khoa.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh u tuyến yên tăng tiết Prolactine, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 417
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HÌNH ẢNH U TUYẾN YÊN TĂNG TIẾT
PROLACTINE
Đồng Văn Hệ*, Lý Ngọc Liên*
TÓM TẮT
Mục tiêu: U tuyến yên chiếm khoảng 15-25% u trong sọ và là một trong 4 loại u hay gặp nhất. Mặc dù đây
là loại u không hiếm gặp ở Việt Nam nhưng còn ít nghiên cứu đề cập tới, chính vì vậy chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này nhằm mục đích: mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh u tuyến yên tăng tiết prolactine.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên 66 bệnh nhân u tuyến yên tăng tiết
prolactine được phẫu thuật bằng đường mổ qua xoang bướm tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Bệnh viện Hữu
nghị Việt Đức từ 1/2009 tới tháng 12/2009.
Kết quả: Trong thời gian từ 1/1/2009 tới 30/12/2009, chúng tôi đã chọn lọc được 66 bệnh nhân u tuyến yên
tăng tiết prolactine đáp ứng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu (chọn lọc từ 140 bệnh nhân u tuyến yên). Tỷ lệ u tuyến
yên tăng tiết prolactine là 47,14%. Trong số đó có 48 bệnh nhân nữ (72,72%) và 18 nam (27,28%). Tuổi thấp
nhất là 17 tuổi và cao nhất là 56 tuổi, trung bình 35±2,5. Trong số 66 bệnh nhân: 10 bệnh nhân điều trị nội thất
bại, 4 bệnh nhân đã phẫu thuật nhưng tái phát và 1 bệnh nhân điều trị bằng xạ trị.
Kết luận: U tuyến yên tăng tiết prolactine là loại u chiếm phần lớn khối u tuyến yên. Điều trị phẫu thuật là
phương pháp điều trị an toàn nhưng nên phối hợp với điều trị nội khoa.
Từ khóa: U tuyến yên tăng tiết prolactine, phẫu thuật bằng đường mổ qua xoang bướm.
ABSTRACT
CLINICAL AND IMAGING FEATURES OF PROLACTINOMAS
Dong Van He, Ly Ngoc Lien* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 417 - 421
Objective: to describe clinical and imaging features of prolactinomas.
Methods: the retrospective study of 66 prolactinoma patients who had done transsphenoidal surgery at
neurosurgery department, Viet Duc from 1/2009 to 12/2009.
Results: we selected 66 prolactinoma patients (140 pituitary adenoma patients) from 1/1/2009 to
30/12/2009. Prolactinomas represent 47.14%, including 48 females (72.72%) and 18 males (27.28%). Average
age is 35±2.5 ( range from 17 to 56). Unreposive medical treatment: 10 patients, recurrence after surgery: 4
patients and 1 patient for radiation therapy.
Conclusion: Prolactinomas are the most common secretory adenoma. Transsphenoidal surgery and medical
treatment are good choice for prolactinomas.
Key words: Prolactinoma, transphenoidal surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
U tuyến yên chiếm khoảng 15-25% u trong
sọ và là một trong 4 loại u hay gặp nhất. U
tuyến yên có thể tăng tiết prolactine, tăng tiết
GH, tăng tiết ACTH hoặc u không tăng tiết
(non-functionating adenoma). Trong số các loại
u tuyến yên, u tăng tiết prolactine và u không
tăng tiết là hai loại hay gặp nhất, chiếm khoảng
70-80% u tuyến yên. U tuyến yên tăng tiết
prolactine có thể được chẩn đoán sớm do bệnh
nhân bị rối loạn nội tiết từ khi khối u còn nhỏ. U
* Khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện Việt Đức
Tác giả liên lạc: PGS TS Đồng Văn Hệ, ĐT: 0903256868, Email: dongvanhe2010@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 418
tuyến yên không tăng tiết thường được chẩn
đoán muộn do bệnh nhân không có rối loạn nội
tiết hoặc rối loạn rất muộn do suy tuyến yên.
Hầu hết u tuyến yên không tăng tiết được điều
trị bằng phẫu thuật trong khi u tuyến yên tăng
tiết prolactine có thể điều trị khỏi bằng phương
pháp nội khoa đơn thuần. U tuyến yên tăng tiết
prolactine là loại bệnh có những đặc điểm riêng
do những rối loạn nội tiết như vô kinh, vô sinh,
rối loạn kinh nguyệt, tăng tiết sữa ở nữ và bất
lực ở nam giới. Mặc dù đây là loại u không hiếm
gặp ở Việt Nam nhưng còn ít nghiên cứu đề cập
tới, chính vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này nhằm mục đích: mô tả đặc điểm lâm sàng,
hình ảnh u tuyến yên tăng tiết prolactine.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên 66 bệnh
nhân u tuyến yên tăng tiết prolactine được phẫu
thuật bằng đường mổ qua xoang bướm tại Khoa
Phẫu thuật Thần kinh, Bệnh viện Hữu nghị Việt
Đức từ 1/2009 tới tháng 12/2009.
Tiêu chuẩn chọn lựa và loại trừ bệnh nhân
nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân được chọn vào
nhóm nghiên cứu nếu đáp đủ các tiêu chuẩn
như: khám lâm sàng, xét nghiệm nội tiết, chụp
cắt lớp vi tính và/hoặc chụp cộng hưởng từ sọ
não, nồng độ prolactine máu cao trong khi nồng
độ nội tiết tố khác không tăng hoặc tăng không
đáng kể, phẫu thuật được thực hiện bằng đường
mổ qua xoang bướm và kết quả giải phẫu bệnh
là u tuyến yên. Chúng tôi không đưa vào nhóm
nghiên cứu nếu bệnh nhân có những đặc điểm
sau: nội tiết tố khác của tuyên yên tăng cao
nhiều hơn prolactine, không rõ chẩn đoán phân
loại khối u tuyến yên, u tuyến yên tăng tiết
prolactine máu nhưng không phẫu thuật, không
có đủ xét nghiệm nội tiết, không đánh giá được
hình ảnh chụp cắt lớp sọ não và hoặc chụp cộng
hưởng từ sọ não.
Các bước tiến hành nghiên cứu: Lập mẫu
bệnh án nghiên cứu. Mọi thông tin liên quan tới
bệnh nhân được đánh giá, khám, ghi nhận và
điền vào mẫu bệnh án cho mỗi bệnh nhân.
Khám lâm sàng bào gồm khám các dấu hiệu rối
loạn nội tiết (vô kinh nguyên phát, vô kinh thứ
phát, tiết sữa, vô sinh nguyên phát, vô sinh thứ
phát, rối loạn kinh nguyệt, bất lực, đái nhạt,
uống nhiều, thay đổi hình dạng, rối loạn phát
triển, lông, tóc, da). Dấu hiệu tăng áp lực
trong sọ như đau đầu, nôn, liệt, liệt dây thần
kinh sọ, tri giác, lác mắt, nhìn đôi, rối loạn vận
nhẫn. Dấu hiệu chèn ép giao thoa thị giác như
nhìn mờ, bán manh ½ thị trường hoặc bán manh
¼ thị trường. Xét nghiệm nội tiết bao gồm nồng
độ prolactine máu, GH, ACTH, FSH, LH, T4.
Hình ảnh chụp sọ: hố yên, hố yên rộng, hố yên
hẹp, hố yên hình hai đáy. Hình ảnh cắt lớp vi
tính: khối u vùng hố yên, tỷ trọng tăng, giảm
hay hỗn hợp. Kích thước, vị trí, mức độ ngấm
thuốc cản quang, mức độ xâm lấn, sàn hố yên,
xoang bướm. Hình ảnh cộng hưởng từ trên
T1WI và T2WI: kích thước, vị trí, mức độ ngấm
thuốc đối quang từ, xâm lấn xuống xoang
bướm, lên trên, sang bên vào xoang tĩnh mạch
hang, chèn ép giao thoa thị giác, xâm lấn ra hố
thái dương, xâm lấn vào hố sau, xâm lấn vào
não thất III, vùng dưới đồi. So sánh dấu hiệu
lâm sàng giữa hai nhóm bệnh nhân nam và nữ,
giữa nhóm bệnh nhân đã điều trị và chưa điều
trị, đã phẫu thuật và chưa phẫu thuật, đã xạ trị
và chưa xạ trị. Phân tích kết quả bằng chương
trình SPSS 10.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ 1/1/2009 tới 30/12/2009,
chúng tôi đã chọn lọc được 66 bệnh nhân u
tuyến yên tăng tiết prolactine đáp ứng đủ tiêu
chuẩn nghiên cứu (chọn lọc từ 140 bệnh nhân u
tuyến yên). Tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine
là 47,14%. Trong số đó có 48 bệnh nhân nữ
(72,72%) và 18 nam (27,28%). Tuổi thấp nhất là
17 tuổi và cao nhất là 56 tuổi, trung bình 35±2,5.
Lứa tuổi 21-40 tuổi gồm 48 bệnh nhân, chiếm
72,72%. Trong số 66 bệnh nhân: 10 bệnh nhân
điều trị nội thất bại, 4 bệnh nhân đã phẫu thuật
nhưng tái phát và 1 bệnh nhân điều trị bằng xạ
trị. Thời gian từ khi xuất hiện triệu chứng đầu
tiên tới khi phẫu thuật: ngắn nhất là 6 tháng và
dài nhất là 12 năm. Bệnh nhân được phẫu thuật
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 419
sau khi có rối loạn nội tiết 1-2 năm gồm bệnh
nhân, chiếm 36/66=54,55%. Lý do khám bệnh
chủ yếu do rối loạn nội tiết (Bảng 1).
Bảng 1-Lý do tới khám bệnh
Lý do Vô kinh Vô
sinh
Tiết
sữa
RLKN Nhìn
mờ
Đau
đầu
Số bệnh
nhân
11 15 8 8 14 17
Tỷ lệ % 16,67 22,73 12,12 12,12 21,21 25,76
Bảng 2-Dấu hiệu lâm sàng trước khi phẫu thuật:
Dấu hiệu
lâm sàng
Vô
kinh
Vô
sinh
Tiết
sữa
RLKN Bất
lực
Nhìn
mờ
Đau
đầu
Số bệnh
nhân
11 15 12 21 5 35 17
Tỷ lệ % 16,67
%
22,73
%
18,18
%
31,82
%
7,57% 53,03% 25,76%
Tổng số bệnh nhân bị rối loạn nội tiết là
62/66=93,94%. Nếu chỉ tính riêng 48 bệnh nhân
nữ, số bệnh nhân bị rối loạn nội tiết là
47/48=97,91% và 9 bệnh nhân có nhiều rối loạn
nội tiết.
Nhìn mờ được xác định ở 35 bệnh nhân,
trong đó nhìn mờ hai bên 28 bệnh nhân và mờ
một mắt 7 bệnh nhân. Bán manh ở 12 bệnh nhân
bao gồm: bán manh hai mắt ở 9 và bán manh
một mắt ở 3 bệnh nhân. Kết quả xét nghiệm
prolactine như trong bảng 3.
Bảng 3-Kết quả xét nghiệm prolactine máu
Nồng độ
Prolactine
máu (UI/L)
700- 2000 2000–
5000
5000-
10.000
>10.00
Số bệnh nhân 9 21 17 19
Tỷ lệ % 13,64% 31,82% 25,76% 28,78%
Trong số 66 bệnh nhân: prolactine cao nhất
là 501 780 UI/L, 8 bệnh nhân khác tăng tiết GH
hoặc tăng tiết FSH, LH, cortisol (chiếm
8/66=12,12%).
Chụp cắt lớp vi tính 45 bệnh nhân: hình ảnh
khối u đồng tỷ trọng ở 41/45=91,11%; tăng tỷ
trọng ở 3 bệnh nhân và ngấm thuốc cản quang ở
32/38=84,21%. Hình ảnh khối u trên cộng hưởng
từ được mô tả trong bảng 4. Kích thước khối u:
u tuyến yên nhỏ (Microadenoma) 10 bệnh nhân
và u tuyến yên lớn (Macroadenoma) 56 bệnh
nhân. U tuyến yên khổng lồ với đường kính
>4cm ở 15 bệnh nhân (22,73%). U ngấm thuốc
đối quang từ ở 58/66=87,88%. Khối u xấm lấn
xoang tĩnh mạch hang ở 9 bệnh nhân, bọc động
mạch cảnh trong 6, xâm lấn vùng trên yên 9 và
xâm lấn vào xoang bướm 5 bệnh nhân.
Bảng 4-Hình ảnh khối u loại prolactinoma trên cộng
hưởng từ
Đặc
điểm
hình ảnh
Đồng tín
hiệu
Tăng tín
hiệu
Giảm tín
hiệu
Tín hiệu hỗn
hợp
Trên
T1WI
28 (42,42%) 8 (12,12%) 11 (16,67%) 19 (28,79%)
Trn
T2WI
8 (12,12%) 39 (59,09%) 0 19 (28,79%)
Chỉ định phẫu thuật do khối u chèn ép,
giảm thị lực, rối loạn nội tiết (51 bệnh nhân),
điều trị nội thất bại (10 bệnh nhân), u tái phát (4
bệnh nhân), xạ trị thất bại (1 bệnh nhân). Tất cả
66 bệnh nhân được phẫu thuật bằng phương
pháp vi phẫu qua xoang bướm. Kết quả phẫu
thuật như trong bảng 5. Rò nước não tủy trong
mổ 5 bệnh nhân, chảy máu mũi sau mổ 3 bệnh
nhân. Không có rò nước não tủy sau mổ. Tử
vong 1 bệnh nhân do chảy máu trong sọ. Kết
quả xa sau mổ: nội tiết tố trở về bình thường
45/55 bệnh nhân (81,81%) trong đó 22 bệnh nhân
phải dùng thuốc điều trị tiếp tục (parloden hoặc
dostinex). Đái nhạt 5 bệnh nhân. 11 bệnh nhân
có thai hoặc đã sinh con sau phẫu thuật 6 tháng-
2 năm.
Bảng 5-Kết quả phẫu thuật u tuyến yên tăng tiết
prolactine
Kết quả
phẫu thuật
Cắt hết u Cắt gần hết
u
Cắt một
phần u
Sinh
thiết
Số bệnh
nhân
41 25 0 0
Tỷ lệ % 62,12% 37,88%
BÀN LUẬN
U tuyến yên tăng tiết prolactine chiếm phần
lớn trong khối u tuyến yên. Tỷ lệ u tuyến yên
tăng tiết prolactine dao động 35-55% tổng số u
tuyến yên. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
prolactinoma chiếm 47,14%. Trong khi tại các
nước phát triển, u tuyến yên tăng tiết prolactine
thường được điều trị nội thành công và chỉ
phẫu thuật khi điều trị nội thất bại(6,8). U tuyến
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 420
yên tăng tiết prolactine có thể điều trị khỏi bằng
thuốc, ngay cả khi khối u lớn, u chèn ép gây
giảm thị lực(1,2). Nhưng phần lớn điều trị nội
khoa phải kéo dài nhiều năm. Nồng độ
prolactine sẽ cao trở lại nếu dừng thuốc. Những
nghiên cứu gần đây tại Châu Âu, Mỹ cho thấy
tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine phải phẫu
thuật chiếm 10-20% tổng số u tuyến yên. Tại
Việt Nam, tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine
được điều trị khỏi bằng thuốc còn khá ít. Trong
hầu hết các nghiên cứu, tỷ lệ u tuyến yên tăng
tiết prolactine được phẫu thuật vẫn chiếm tỷ lệ
cao nhất(7,9).
U tuyến yên tăng tiết prolactine gặp ở nữ
nhiều hơn nam. Tỷ lệ bệnh nhân nữ/nam trong
nghiên cứu của chúng tôi là 2,67. Tỷ lệ bệnh
nhân nữ cao hơn nam ở hầu hết các thông báo
về u tuyến yên tăng tiết prolactine. Lứa tuổi hay
gặp nhất là từ 21-40 tuổi, chiếm 72,72%. Hơn hai
phần ba bệnh nhân u tăng tiết prolactine ở lứa
tuổi hoạt động sinh dục(3,4,6)
Lý do bệnh nhân tới khám bệnh chủ yếu do
rối loạn nội tiết như vô kinh nguyên phát hay
thứ phát, vô sinh nguyên phát hay thứ phát,
kinh nguyệt rối loạn hay tiết sữa. 42 bệnh nhân
đi khám bệnh vì rối loạn nội tiết, chiếm 63,64%.
Ngoài ra, một số bệnh nhân đi khám bệnh do thị
lực giảm hoặc đau đầu. Thời gian tính từ khi
xuất hiện triệu chứng đầu tiên tới khi phẫu
thuật trung bình là 15 tháng, ngắn nhất là 6
tháng và dài nhất là 12 năm. Thời gian bị bệnh
ngắn hơn nhiều nếu so với bệnh to đầu chi
acromegaly (tăng tiết GH). Thời gian trung bình
từ khi bị bệnh tới khi chẩn đoán bệnh là 7-10
năm đối với u tuyến yên tăng tiết GH
(acromegaly) và là 2 năm đối với u tuyến yên
không tăng tiết. Bệnh nhân đi khám sau 12 năm
vô kinh là nữ, 50 tuổi, bị vô kinh thứ phát từ
năm 38 tuổi. Bệnh nhân bị vô kinh thứ phát sau
khi sinh con thứ 2 và không đi khám vì “mọi
chuyện vẫn ổn”. Khi thị lực mắt giảm bệnh nhân
mới đi khám (khối u lớn 3,1cm, thị lực 5/10 cả
hai mắt, prolactine 100 000 UI/L).
Triệu chứng hay gặp nhất trước khi phẫu
thuật là rối loạn nội tiết 62 bệnh nhân, chiếm tỷ
lệ 93,94%. Điều này khác với khối u tuyến yên
không tăng tiết. Khoảng 10% u tuyến yên không
tăng tiết có biểu hiện rối loạn nội tiết (thường
biểu hiện hội chứng suy tuyến yên). Bệnh nhân
bị u tuyến yên tăng tiết GH, tăng tiết ACTH
cũng thường có biểu hiện lâm sàng chủ yếu do
nội tiết tố tăng. Bệnh nhân bị u tuyến yên tăng
tiết ACTH (bệnh Cushing) thường đi khám sớm
hơn do bệnh nặng lên nhanh hơn. Trong khi u
tuyến yên tăng tiết prolactine có biểu hiện bệnh
sớm nhưng người bệnh thường chủ quan, ít
quan tâm nên đi khám muộn(4).
Mặc dù dấu hiệu rối loạn nội tiết xuất hiện
sớm và khá rõ nhưng bệnh nhân vẫn tới khám
muộn nên 35 bệnh nhân bị giảm thị lực (53,03%).
Đây là lý do 84,85% bệnh nhân là u tuyến yên
lớn và 22,73% là u tuyến yên khổng lồ trước khi
phẫu thuật (u lớn hơn 4cm).
Xét nghiệm nội tiết cho thấy 86,36% bệnh
nhân có nồng độ prolactine cao hơn 2000 UI/L,
trong khi giới hạn bình thường của prolactine là
dưới 600. Bệnh nhân có nồng độ prolactine cao
nhất 501780 UI/L. Không có sự tương quan giữa
kích thước khối u với nồng độ prolactine
máu(2,10). Bằng chứng là 7/10 bệnh nhân u tuyến
yên nhỏ có nồng độ prolactine cao hơn 5000
UI/L. Trong số 66 bệnh nhân, 12,12% bệnh nhân
có tăng một hay nhiều loại nội tiết tố khác. Một
số tác giả cũng ghi nhận khoảng dưới 10% u
tuyến yên tăng tiết prolactine là u hỗn hợp.
Chúng tôi không xác định loại u hỗn hợp dựa
trên kết quả giải phẫu bệnh. Trong thực hành
lâm sàng, một số trường hợp tăng nồng độ
prolactine máu mà không phải do u tuyến yên
có thể gặp do khối u khác vùng hố yên (u màng
não, u sọ hầu, u tế bào mầm germioma, nang
vùng hố yên, u di căn hố yên), do sinh lý (có
thai, nuôi con bằng sữa mẹ, vận động quá
nhiều, stress), do sử dụng một số thuốc (một số
thuốc tâm thần, thuốc chống trầm cảm, thuốc
tăng cường tiêu hóa, thuốc điều trị cao huyết
áp) hay do một số bệnh khác (hạ đường máu,
phẫu thuật, động kinh, suy thận mãn, xơ gan,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 421
rối loạn chức năng vùng dưới đồi, suy tuyến
giáp tiên phát). Chính vì vậy, nên thận trọng khi
đánh giá nồng độ cao của prolactine máu và
phải thăm khám toàn diện trước khi chẩn đoán
u tuyến yên hay trước khi đưa ra quyết định
thăm dò tuyến yên(8,10).
Chẩn đoán u tuyến yên tăng tiết prolactine
cũng giống như các loại u tuyến yên khác khi
dựa vào hình ảnh cắt lớp vi tính và cộng hưởng
từ. Khối u tuyến yên phần lớn đồng tỷ trọng
(91,11%) và khối u ngấm thuốc cản quang
(84,21%) trên hình ảnh cắt lớp vi tính. Hình ảnh
cộng hưởng từ là hình ảnh đồng tín hiệu 42,42%
và hình ảnh hỗn hợp 28,79% trên T1WI. Trên
T2WI: khối u chủ yếu là hình ảnh tăng tín hiệu
59,09% và tín hiệu hỗn hợp 28,79%. Hình ảnh
khối u tuyến yên tăng tiết prolactine không khác
với khối u tuyến yên khác(3,7,8,9).
Điều trị u tuyến yên tăng tiết prolactine thay
đổi nhiều trong 20 năm qua nhờ ứng dụng
những thuốc mới trong điều trị. Tại các nước
phát triển, điều trị nội khoa là sự lựa chọn hàng
đầu đối với loại u này. Trong khi chúng ta vẫn
coi phẫu thuật là sự lựa chọn tốt nhất. Phẫu
thuật u tuyến yên tăng tiết prolactine không qua
phức tạp do u mềm, dễ hút, ít chảy máu và tỷ lệ
tại biến, biến chứng thấp. Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn
khối u tuyến yên tăng tiết prolactine là 62,62%
cao hơn so với loại khối u khác (acromegaly,
bệnh Cushing). Tỷ lệ khống chế nồng độ
prolactine máu là 81,81%. Nếu không dung
thuốc, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ prolactine
bình thường chỉ là 23/45=51,11%. Như vậy, tỷ lệ
khỏi bệnh sau phẫu thuật là 51,11%. Tỷ lệ này
đạt 81,81% khi phối hợp với điều trị nội khoa.
Điều này cho thấy, phẫu thuật là phương pháp
điều trị hiệu quả nếu kết hợp với điều trị nội
khoa.
KẾT LUẬN
U tuyến yên tăng tiết prolactine là loại u
chiếm phần lớn khối u tuyến yên. Dấu hiệu lâm
sàng chủ yếu là rối loạn nội tiết. Hơn 50% bệnh
nhân có giảm thị lực do chẩn đoán muộn. Điều
trị phẫu thuật là phương pháp điều trị an toàn
nhưng nên phối hợp với điều trị nội khoa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abraham P and Bevan J S (2003). Prolactinoma, Management of
pituitary tumors. Second Edition, Humana Press: 21-42.
2. Batrinos M L (2009). Extensive personal experience. Validation of
prolactin levels in menstrual disorders and in prolactinomas,
Hormones. 8, 4: 258-266.
3. Bhansali A et al (2010). Efficacy of cabergoline on rapid escalation
of dose in men with macroprolactinomas. Indian J Med Res, 131:
530-535.
4. Buslei J K et al (2008). Operative treatment of prolactinomas:
indications and in a current consecutive series of 212 patients.
European Journal Endocrinol, 158: 11-18.
5. Fideleff H L et al (2009). Prolactinoma in children and
adolescents. Horm Res, 72: 197-205.
6. Kars M et al (2010). Update in prolactinomas. The Journal of
Medicine, 68, 3: 104-112.
7. Lý Ngọc Liên (2003). Nghiên cứu áp dụng phương pháp mổ u
tuyến yên qua đường xoang bướm tại BV HN Việt Đức. Luận
văn CKII, Đại học Y Hà Nội.
8. Molitch M E (2008). The cabergoline-resistant prolactinoma
patient: New challenges. J Clin Endocrinol Metab, 93, 12: 4643-
4645.
9. Nguyễn Phong, Võ Văn Nho (2003). U tuyến yên: đặc điểm lâm
sàng và kết quả phẫu thuật qua xoang bướm. Y học TP Hồ Chí
Minh, 7, 2: 23-25.
10. Schlechte J A (2007). Long-term management of prolactinomas. J
Clinical Endocrinol Metab, 92, 8: 2861-2865.