Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tăng áp phổi cấp sau phẫu thuật tim hở 48 giờ đầu bệnh tim bẩm sinh có tăng áp phổi tại Bệnh viện Nhi Thanh Hóa

Mục tiêu: Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng và khởi phát cùng với những đặc điểm của cơn tăng áp phổi cấp nguy hiểm sau phẫu thuật tim hở bệnh tim bẩm sinh có tăng áp phổi từ đó đưa ra cách theo dõi và chăm sóc bệnh nhân tốt nhất. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả. Kết quả: Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy đối với nhóm có tăng áp phổi (TAP) trung bình thời gian rút nội khí quản sớm (trước 8 giờ). Có 8 bệnh nhân (chiếm 25%) xuất hiện cơn TAP cấp với với các triệu chứng lâm sàng sau: mạch nhanh sau đó chậm dần, SPO2 tụt, huyết áp hệ thống tụt, CVP tăng, tình trạng thiểu niệu hoặc vô niệu xuất hiện sau cơn. Biến chứng thường gặp nhất là suy tim (15,6%) và tử vong (9,3%), đa số nằm trong nhóm bệnh nhân có TAP nặng trước mổ. Kết luận: Những bệnh tim bẩm sinh (TBS) phức tạp như: AVSD, thân chung động mạch, TGA, DORV có nguy cơ cao xuất hiện cơn TAP sau mổ. Các yếu tố thuận lợi như hút nội khí quản và gắng sức sau khi rút nội khí quản, tình trạng thiếu oxy, xẹp phổi, đau được cho là khởi phát cơn TAP cấp. Nên phẫu thuật sớm để làm giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng do TAP. Để hồi sức tốt bệnh nhân TAP chúng ta cần phải theo dõi sát các chỉ số huyết động, tránh các yếu tố gây gắng sức, thiếu oxy, và giảm đau cho bệnh nhân

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tăng áp phổi cấp sau phẫu thuật tim hở 48 giờ đầu bệnh tim bẩm sinh có tăng áp phổi tại Bệnh viện Nhi Thanh Hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 47 ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TĂNG ÁP PHỔI CẤP   SAU PHẪU THUẬT TIM HỞ 48 GIỜ ĐẦU BỆNH TIM BẨM SINH   CÓ TĂNG ÁP PHỔI TẠI BỆNH VIỆN NHI THANH HÓA  Hoàng Thị Phương*  TÓM TẮT   Mục tiêu: Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng và khởi phát cùng với những đặc điểm của cơn tăng áp phổi cấp  nguy hiểm sau phẫu thuật tim hở bệnh tim bẩm sinh có tăng áp phổi từ đó đưa ra cách theo dõi và chăm sóc bệnh  nhân tốt nhất.   Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả.  Kết quả: Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy đối với nhóm có tăng áp phổi (TAP) trung bình thời gian  rút nội khí quản sớm (trước 8 giờ). Có 8 bệnh nhân (chiếm 25%) xuất hiện cơn TAP cấp với với các triệu chứng  lâm sàng sau: mạch nhanh sau đó chậm dần, SPO2 tụt, huyết áp hệ thống tụt, CVP tăng, tình trạng thiểu niệu  hoặc vô niệu xuất hiện sau cơn. Biến chứng thường gặp nhất là suy tim (15,6%) và tử vong (9,3%), đa số nằm  trong nhóm bệnh nhân có TAP nặng trước mổ.  Kết luận: Những bệnh tim bẩm sinh (TBS) phức tạp như: AVSD, thân chung động mạch, TGA, DORV có  nguy cơ cao xuất hiện cơn TAP sau mổ. Các yếu tố thuận lợi như hút nội khí quản và gắng sức sau khi rút nội  khí quản, tình trạng thiếu oxy, xẹp phổi, đau được cho là khởi phát cơn TAP cấp. Nên phẫu thuật sớm để làm  giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng do TAP. Để hồi sức tốt bệnh nhân TAP chúng ta cần phải theo dõi sát các chỉ  số huyết động, tránh các yếu tố gây gắng sức, thiếu oxy, và giảm đau cho bệnh nhân.  Từ khóa: Bệnh tim bẩm sinh, tăng áp phổi, cơn tăng áp phổi cấp, phẫu thuật tim.  ABSTRACT  PULMONARY HYPERTENSIVE CRISIS:   EVALUATION RISK FACTORS POSTOPETRATIVE 48HRS FOR CONGENITAL HEART DISEASE   WITH PULMONARY HYPERTENSION IN THANH HOA CHILDREN’S HOSPITAL  Hoang Thi Phuong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 47 ‐ 52  Objective: Evaluate the factors that influence the onset and characteristics of the pulmonary hypertensive  crisis after congenital heart surgery and then finding a way to follow up and best patient care.  Methods: Retrospective descriptive study.  Results: Through  research we  found  the PH medium group have  extubated  early  (before 8 hrs post‐op).  There were 8 patients (25%) appeared pulmonary hypertesion crisis with clinical signs: pulse rapidly and then  slowly, SPO2 dropped, blood pressure system down, CVP increased, the status of oliguria or anuria after that. Is  the most common complication of right heart failure (15.6%) and mortality (9.3%), all patients in the group with  preoperative severe PH.  Conclusions: The complex congenital heart diseases such as: AVSD,  truncus arteriosus, TGA, high‐ risk  postoperative  appearance  Pulmonary  hypertension  crisis.  The  triggers  favorable  factors  such  as  endotracheal suction and stress after tracheal extubation, hypoxia, atelectasis, pain is believed to be the onset  of PH crisis. So early surgery  to reduce mortality and complications of CHD with PH. For Postoperative  CHD with PH nursing care we need to closely monitor the hemodynamic indexes, triggers, avoid exertion,  hypoxia, and pain relief for patients.  * Bệnh viện Nhi Thanh Hóa.  Tác giả liên lạc: ĐD Hoàng Thị Phương, ĐT: 0373953979, Email: xuan0271984@yahoo.com   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  48 Keywords: Congenital heart disease, pulmonary hypertension, pulmonary hypertension crisis and cardiac  surgery.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Tăng áp phổi (TAP) là một trong những hậu  quả  nghiêm  trọng  của  bệnh  tim  bẩm  sinh  có  luồng shunt trái – phải; tăng áp phổi được định  nghĩa  là  áp  lực  động mạch phổi  tâm  thu  >  35  mmHg hoặc PAPm  >  25 mmHg  lúc nghỉ ngơi  hoặc > 30 mmHg lúc gắng sức (2). TAP được đặc  trưng bởi sự tăng tiến triển kháng trở mạch phổi  dẫn  tới  suy  tim  phải  và  tử  vong  sớm.  Trong  những năm gần đây y học đã đạt được những  thành  tựu  lớn  trong  hiểu  biết  về  cơ  chế  bệnh  sinh, tiến triển bệnh, chẩn đoán và điều trị tăng  áp  phổi  nói  chung  và  của  riêng  bệnh  lý  tim  mạch bẩm sinh.   Trong  suốt  quá  trình  phẫu  thuật  tim  có  nhiều yếu  tố ảnh hưởng  làm nặng  thêm TAP  như quá  trình gây mê, phẫu  thuật,  chạy máy  tuần hoàn ngoài  cơ  thể và  chiến  lược bảo  vệ  tim, sự giải phóng các chất trung gian hóa học.  Hồi  sức hậu phẫu  đối với phẫu  thuật  tim hở  bệnh nhân có TAP thực sự là thử thách lớn đối  với  Ekip  hồi  sức,  việc  chăm  sóc  và  theo  dõi  chặt chẽ bệnh nhân không chỉ với đội ngũ bác  sỹ  hồi  sức  mà  còn  phải  phối  hợp  với  điều  dưỡng  SICU  (hồi  sức  phẫu  thuật)  là  hết  sức  quan trọng trong việc phát hiện sớm các triệu  chứng của TAP, đánh giá các yếu  tố gây khởi  phát tăng áp phổi sau phẫu thuật nhất là trong  giai đoạn 48 giờ đầu.   Mục tiêu nghiên cứu  Mô  tả  các  yếu  tố  ảnh  hưởng  và  khởi  phát  cùng với những đặc điểm của cơn tăng áp phổi  cấp sau phẫu  thuật bệnh  tim bẩm sinh có  tăng  áp phổi từ đó đưa ra cách theo dõi và chăm sóc  bệnh nhân tốt nhất.   ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu   Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 32 BN  được  điều  trị  phẫu  thuật  tại  bệnh  viện  Nhi  Thanh Hóa (từ tháng 01 năm 2013 đến tháng 06  năm 2013).  Tiêu chuẩn lựa chọn  Bệnh nhân tim bẩm sinh có kết quả siêu âm  chẩn đoán tăng áp phổi.  Tiêu chuẩn loại trừ  Các bệnh lý khác có tăng áp phổi.  Phương pháp nghiên cứu  Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang.  Xử lý số liệu  Sử dụng phần mềm Epi Info 3.5.4.  Qui trình làm nghiên cứu  Mẫu nghiên cứu gồm các dữ kiện về: Họ tên  bệnh nhân, tuổi giới, địa chỉ, biểu hiện lâm sàng,  cận lâm sàng (siêu âm tim trước mổ và sau mổ)  X‐ quang  tim phổi, các  thay đổi về huyết động  và hô hấp, các triệu chứng cơn tăng áp phổi cấp,  các yếu  tố khởi phát và  đặc  điểm TAP,  các  tai  biến xảy ra.  Siêu âm tim trước và sau phẫu thuật nhằm  đánh  giá  các  chỉ  số:  Chức  năng  tim,  tổn  thương, kích  thước  thất phải, chênh áp và áp  lực ĐM phổi.   KẾT QUẢ   Phân bố chung  Bảng 1. Phân bố về tuổi, giới, cân nặng  Giới Tuổi (tháng) Cân nặng Nam Nữ 27,84± 44,67 9,23± 7,01 22 (68,7%) 10 (32,3%) * Nhận xét: Về giới: Tỉ lệ nam > nữ. Về tuổi:  Bệnh nhân nhỏ nhất là 1 tháng tuổi, Bệnh nhân  nhiều  tuổi  nhất  là  15  tuổi,độ  tuổi  trung  bình  27,84±44,67  tháng.  Về  cân  nặng:  Bệnh  nhân  trong  nhóm  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  cân  nặng thấp hơn so với tuổi, trong đó bệnh nhân  thấp cân nhất là 3 kg trung bình là 9,23 ± 7,01 kg.   Bệnh cảnh TLT là chủ yếu (78%); nhóm bệnh  nhân  tim  bẩm  sinh  phức  tạp  như  AVSD  và  DORV  chiếm  tỉ  lệ  thấp  nhưng  mức  độ  TAP  thường nặng hơn.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 49 AVSD 19% VSD+PD A 31% VSD 47% DORV 3% Biểu đồ phân bố mặt bệnh Hình 1. Phân bố theo mặt bệnh  Đặc điểm  lâm sàng, cận  lâm sàng và điều  trị tăng áp trước phẫu thuật.  Đặc điểm lâm sàng  Bệnh nhân có tiền sử viêm phổi tái phát nhiều  lần, hoặc  đã  được  chẩn  đoán TBS. Các bệnh  lý  luồng  shunt  trái‐  phải  lớn  gây  lượng máu  lên  phổi nhiều  là điều kiện thuận  lợi gây bội nhiễm  phổi. Do đó trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả  bệnh nhân đều được điều  trị kháng sinh và các  thuốc dãn mạch phổi trước mổ.   Đặc điểm cận lâm sàng  Siêu  âm Dopler Tim  là phương pháp  giúp  chỉ định điều trị phẫu thuật và đánh giá mức độ  TAP  trước,  sau  phẫu  thuật.  Theo  Roldan  thì  ALĐMP  tâm  thu  qua  siêu  âm  tim  thực  hiện  trước và sau mổ được phân chia như sau:  +  TAP  nhẹ:  35≤  ALĐMP  tâm  thu  ≤  45  mmHg.  + TAP trung bình: 45< ALĐMP tâm thu < 60  mmHg.  + TAP nặng: ALĐMP tâm thu ≥ 60 mmHg.   Dựa  trên  tiêu  chuẩn này  trong nghiên  cứu  của chúng tôi có 15 bệnh nhân TAP nặng, còn lại  là TAP trung bình.  Những biến đổi trong giai đoạn 48 giờ đầu hồi  sức sau mổ.  Bảng 2. Thời gian thở máy.  Stt Thời gian thở máy n % 1 ≤ 8 giờ 8 25 2 > 8 giờ 24 75 Tổng số 32 100 * Nhận xét: Những bệnh nhân có  thời gian  thở máy  ≤  8  giờ  nằm  trong  nhóm  TAP  trung  bình. Áp lực mạch phổi còn cao sau phẫu thuật  là một  trong những yếu  tố  làm  tăng  thời gian  thở máy.   Bảng 3. Biến đổi về huyết áp.  Stt Biến đổi về huyết áp n % 1 Trong giới hạn bình thường 24 75 2 Hội chứng giảm cung lượng tim 8 25 3 Tăng huyết áp 0 0 Tổng số 32 100 * Nhận xét: Trong giai đoạn 48 giờ đầu sau  mổ  huyết  áp  biến  đổi  trong  giới  hạn  bình  thường  24/32  bệnh  nhân  chiếm  75%,  8  bệnh  nhân có hội chứng giảm cung lượng tim, không  có bệnh nhân nào tăng huyết áp.   0% 20% 40% 60% 80% 100% Vận mạch An thần và giảm đau Giảm đau đơn thuần Điều trị tăng áp Kháng sinh Dịch nuôi dưỡng Hình 2. Đặc điểm về thuốc vận mạch, an thần, điều trị tăng áp và kháng sinh của BN.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  50 * Nhận xét: Đa số bệnh nhân được thực hiện  y  lệnh dùng  vận mạch,  kháng  sinh, dịch  nuôi  dưỡng. Trong số này có 15 bệnh nhân dùng tối  thiểu 1  loại vận mạch Dopamin. An  thần phối  hợp  với  giảm  đau  sau mổ  được  ưu  tiên dùng  (60%). Có 16 bệnh nhân được điều trị TAP trong  đó có 2 bệnh nhân dùng phối hợp Milrinone và  Ilomedin.   Thay đổi về áp lực ĐMP sau phẫu thuật  Siêu âm đánh giá trong 24 giờ đầu sau phẫu  thuật có 12/32 (chiếm 37,5%) bệnh nhân ALĐM  còn cao, trong số đó có 8 bệnh nhân (chiếm 25%)  xuất hiện cơn TAP cấp.  Bảng 4. Yếu tố khởi phát cơn TAP cấp.  Yếu tố khởi phát n % Sau hút nội khí quản 2 25 Sau khi dùng thuốc 1 12,5 Gắng sức khi cai máy 1 12,5 Gắng sức sau rút ống 2 25 Nguyên nhân tại phổi 1 12,5 Đau 1 12,5 Tự phát 1 12,5 Tổng số 8 100 * Nhận xét: Có nhiều yếu tố khởi phát TAP  cấp,  tuy  nhiên  yếu  tố  gắng  sức  và  thiếu  oxy  chiếm tỉ lệ cao hơn.  Đặc điểm lâm sàng những bệnh nhân TAP  cấp  Trên lâm sàng chúng tôi nhận thấy những  bệnh  nhân  có  cơn  TAP  cấp  thường  có mạch  nhanh  sau  đó  chậm  dần,  SPO2  tụt,  áp  lực  đường  thở  tăng  cao,  huyết  áp  hệ  thống  tụt,  CVP  tăng,  tình  trạng  thiểu niệu hoặc vô niệu  xuất hiện sau cơn.   Biến chứng do TAP cấp.  Bảng 5. Biến chứng sau TAP cấp sau mổ.  Biến chứng n % Tổng số Suy tim 5 15,6 32 Tử vong 3 9,3 * Nhận xét: Trong  số 8 bệnh nhân  có  cơn  TAP  cấp  sau  mổ,  có  5  bệnh  nhân  suy  tim  (15,6%  trong  tổng  số  bệnh  nhân),  có  3  bệnh  nhân tử vong do suy tim nặng không đáp ứng  với điều trị.  BÀN LUẬN  Bệnh tim bẩm sinh có  luồng shunt T‐P như  VSD đơn thuần lớn, hoặc kết hợp với ASD, PDA  hoặc các BTBS phức  tạp như AVSD, TGA, dẫn  đến sự quá tải về thể tích và áp lực lên hệ thống  mạch máu  phổi,  là  yếu  tố  chính  gây  nên  tình  trạng  bội  nhiễm  phổi  (4).  Do  đó  bệnh  nhân  thường đến viện trong bệnh cảnh viêm phổi tái  phát nhiều lần (27/32 bệnh nhân). Chính nguyên  nhân này gây trì hoãn thời gian phẫu thuật, dẫn  đến nguy cơ tổn thương phổi, kéo dài quá trình  hậu phẫu. Có 28/32 bệnh nhân thở máy kéo dài  trên 8 giờ. Đồng thời chúng tôi cũng nhận thấy  cân  nặng  trước mổ  của  trẻ  thấp  cũng  là một  trong  các  yếu  tố  thuận  lợi  làm  cho TAP  nặng  hơn (8/15 bệnh nhân TAP nặng trước mổ và 6/8  bệnh nhân TAP cấp sau mổ có cân nặng < 5 kg).  Đối với nhóm bệnh nhân TBS  có TAP nếu  không  được  điều  trị  có  thể dẫn  tới  hội  chứng  Eisenmenger và suy tim phải. Trong những thập  kỷ gần đây, những tiến bộ về điều trị bệnh TBS  có TAP giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót cho  bệnh nhân. Bởi vậy những bệnh nhân này  cần  được  chỉ  định  phẫu  thuật  càng  sớm  càng  tốt.  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  đa  số  bệnh  nhân  được chỉ định phẫu  thuật sớm, duy chỉ có một  bệnh  nhân  15  tuổi do  gia  đình  không  có  điều  kiện nên đến khám và phẫu thuật muộn hơn.  Về bệnh cảnh  VSD  chiếm 78% nhưng  tỷ  lệ xuất hiện  cơn  TAP chỉ có 5 bệnh nhân chỉ chiếm 20%. Trong  khi đó nhóm TBS phức tạp như AVSD thấp hơn  nhưng  tần xuất xuất hiện TAP cấp sau mổ cao  chiếm 50%.  TAP  tồn  tại  sau  phẫu  thuật  được  định  nghĩa  là Áp  lực  động mạch phổi  tâm  thu  lớn  hơn  50% huyết  áp  tâm  thu và kéo dài  trên  6  giờ  sau  phẫu  thuật.  Siêu  âm  đánh  giá  bệnh  nhân trước phẫu thuật chúng tôi nhận thấy có  15  trường hợp có ALĐMP TT  ≥ 60 mmHg và  17  trường hợp  có ALĐMP TT  trong  giới hạn  trung bình. Trong nhóm TAP nặng  trước mổ,  sau phẫu thuật chúng tôi kiểm tra qua siêu âm  vẫn còn 12 bệnh nhân có TAP  (chiếm 37,5%),  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 51 trong số đó có 8 bệnh nhân( chiếm 25%) xuất  hiện cơn TAP cấp sau mổ. Theo một số khuyến  cáo mới nhất khi áp  lực động mạch phổi  tâm  thu > 70 mmHg vói nhóm bệnh  tim bẩm sinh  có  luồng shunt  trái – phải cần phải được  tiến  hành phẫu thuật cấp cứu (2).  Thời gian xuất hiện cơn TAP cấp, chúng tôi  thấy đa số xuất hiện trong 24 giờ đầu sau phẫu  thuật (6/8 bệnh nhân) trên nền những bệnh nhân  ALĐMP còn cao sau phẫu thuật và thường vào  các thời điểm như: Cai máy thở, sau khi rút ống  nội khí quản,  trong quá  trình hút đờm dãi. Kết  quả này tương tự như các nghiên cứu của Bando  hay  các  tác  giả  khác  (4). Trong  nghiên  cứu  của  chúng tôi cá biệt có 1 trường hợp xuất hiện TAP  cấp sau khi dùng thuốc và 1 bệnh nhân tự phát.  Như vậy có rất nhiều các yếu  tố gây khởi phát  cơn TAP cấp, tuy nhiên gắng sức và thiếu oxy là  một trong hai yếu tố quan trọng nhất. Vì vậy, để  hạn  chế  tối  đa  các  yếu  tố  này,  đối  với  những  bệnh nhân trong nhóm nguy cơ cao có TAP cấp  sau mổ, phẫu  thuật viên cần đặt Catheter  theo  dõi ALĐMP  trong và  sau mổ; nếu  cần  thiết  ta  nên duy trì an thần sâu, dãn cơ, thở máy lâu hơn  24 giờ, cân nhắc thời điểm rút nội khí quản phù  hợp  tránh  hiện  tượng  TAP  sau  rút  ống. Một  trong  các  điểm quan  trọng  trong quá  trình hồi  sức  là  quy  trình  chăm  sóc  hút  nội  khí  quản,  chúng ta luôn luôn đảm bảo đủ oxy và an thần,  giảm đau hiệu quả  (5). Gần đây, các nghiên cứu  thử  nghiệm  lâm  sàng  trong  và  ngoài  nước  về  hiệu quả của hút nội khí quản kín và hở; các tác  giả đều đưa ra kết luận phương pháp hút NKQ  kín góp phần hạn chế giảm oxy máu và thay đổi  nhịp  tim  trong  khi  hút(1,6).  Bởi  vậy,  chúng  tôi  thiết  nghĩ  rằng  có  nên  áp dụng  phương  pháp  này vào nhóm bệnh nhân TAP sau phẫu thuật.  Đồng  thời, vì  chưa  có nghiên  cứu về kỹ  thuật  hút nội khí quản khi chăm sóc bệnh nhân TAP  và hạn chế về mẫu nghiên cứu, chưa có nhóm  đối chứng nên chúng  tôi chưa đưa ra được kết  luận về phương pháp hút tốt nhất.   Dấu hiệu  lâm sàng cơn TAP cấp, chúng  tôi  cũng  nhận  thấy  các  dấu  hiệu  như  sau: mạch  nhanh  trong  thời gian ngắn  sau  đó  chậm dần,  SPO2  tụt, áp  lực đường  thở  tăng cao, bóp bóng  nặng tay, trong khi đó phổi 2 bên thông khí tốt,  nội khí quản không có hoặc rất ít đờm, huyết áp  hệ  thống  tụt, CVP  tăng,  tình  trạng  thiểu  niệu  hoặc vô niệu xuất hiện sau cơn. Trong rất nhiều  trường hợp  chúng  ta  có  thể bị nhầm  cơn TAP  cấp với tràn khí màng phổi áp lực, tắc đờm hay  tụt nội khí quản (3). Vì vậy, khi cơn TAP cấp xẩy  ra xử  trí  trước  tiên  là bóp bóng với oxy  100%,  nếu nhịp chậm làm PCR kịp thời. Ngoài ra chăm  sóc hồi  sức  sau mổ như: Theo dõi  sát  các dấu  hiệu  lâm  sàng,  thở máy với  áp  lực  đường  thở  thấp, chống tắc và tụt NKQ, chúng ta nên giảm  tối  đa  các yếu  tố kích  thích gây khởi phát  cơn  TAP cấp.   Hậu quả  của  cơn TAP  cấp  sau mổ  thường  dẫn đến nhiều biến chứng khác nhau và đây là  một  trong những nguyên nhân gây hội  chứng  giảm  cung  lượng  tim,  theo Matthias  (2010)  có  khoảng 5% xảy ra biến chứng này ở bệnh nhân  sau phẫu  thuật  tim.  (3). Trong  tổng  số  32  bệnh  nhân  chúng  tôi nghiên  cứu  có  8/32 bệnh nhân  (25%)  có  cơn  TAP  cấp,  trong  đó  suy  tim  cấp  (15,6%) và tử vong (9,3%). 3 trường hợp tử vong  trong nghiên cứu này bao gồm 2 ca AVSD và 1  ca VSD, nguyên nhân tử vong đều do TAP cấp  nặng, suy tim cấp và suy đa phủ tạng.  KẾT LUẬN  Qua nghiên cứu 32 bệnh nhân TBS  tăng áp  phổi được phẫu thuật tại bệnh viện Nhi Thanh  Hóa chúng tôi có một số nhận xét sau:  Cơn  tăng  áp  phổi  cấp  sau  phẫu  thuật  có  nguyên nhân chưa rõ ràng,  thường xảy ra sớm  trong  48  giờ  sau phẫu  thuật  với  các diễn  biến  lâm  sàng  đặc  trưng ALĐMP  cao,  SpO2  tụt,  áp  lực đường  thở cao,  tụt huyết áp hệ  thống, cuối  cùng là mạch chậm và shock tim.  Qua quá  trình chăm sóc và hồi sức chúng  tôi nhận  thấy một số yếu  tố có  liên quan đến  khởi phát cơn TAP cấp như: Hút nội khí quản,  gắng sức khi cai máy hoặc sau khi rút ống, xẹp  phổi, đau.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  52 Bởi vậy quá trình hồi sức, chăm sóc và theo  dõi bệnh nhân sau mổ cần phải theo dõi sát các  chỉ  số huyết  động,  tránh  các yếu  tố kích  thích,  gây gắng sức, thiếu oxy, đồng thời giảm đau an  thần tốt nhất cho bệnh nhân.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. de  Paula  LCS,  Ceccon  MEJ  (2010).  Rsdomized  comparative  analysis between two tracheal suction systems in neonates. Rev  Assoc Med Bras; 56 (4): pp. 434‐9.  2. Hill NS, Roberts KR, Preston IR (2009). Postopertive Pulmonary  hypertension:  Etiology  and  treatment  of  Dangerous  Coplication. Respiratory care. July Vol 54, pp. 7.  3. Mathias  G, Hong  G,  et  al  (2010).  Peri‐Operative  pulmonary  hypertension in pediatric patients: Current strategies in children  with congenital heart disease Cadiology; 116, pp. 10‐17.  4. Ngọ Văn Thanh, Nguyễn Lân Hiếu, Nguyễn Văn Mão, Hà Mai  Hương, Ngô Chí Hiếu, Nguyễn Xuân Tuấn, Vũ Thục Phương  (2010). Tăng áp phổi trong bệnh lý tim bẩm sinh trẻ em. Chuyên  đề tim mạch học. NXB y học, tr. 8‐14.  5. Tanmoy  D,  Rahul  B,  Kanchi  M  (1996).  Pulmonary  hypertentisive crisis following pediatric cardiac surgery” Asian  Cardiovasc Thorac Ann; 4: pp. 226‐229.  6. Vũ Mai Hương, Nguyễn Thúy Hà, Dương Thị Ngôn, Nguyễn  Mai Hương, Nguyễn Thị Sang, Hoàng Thị Oanh, Đào Thị Vân,  Phạm Thị Tú  (2013). Đánh giá hiệu quả sử dụng và hiệu quả  kinh  tế của phương pháp hút nội khí quản sử dụng Catheter  hút kín. Tạp chí Điều dưỡng, tr. 3‐8.  Ngày nhận bài báo:     04‐10‐2013.  Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11‐11‐2013.  Ngày bài báo được đăng:    16‐12‐2013.