Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của kỹ thuật gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng
(CSE) để giảm đau trong và sau mổ lấy thai (MLT) chọn lọc.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả, cắt ngang. Nghiên cứu 140 sản phụ có chỉ định MLT chọn
lọc được thực hiện kỹ thuật CSE để mổ tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 09/2009 đến tháng 03/2010.
Thu thập các số liệu về hiệu quả quả giảm đau trong mổ và sau mổ, các tác dụng không mong muốn, sức
khỏe của trẻ sơ sinh.
Kết quả: Nghiên cứu trên 140 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai có chọn lọc, đạt kết quả như sau: Tỉ lệ thành
công 96,43%. Hiệu quả giảm đau trong mổ tốt 86,43%, trung bình 10,00%, có 3,57% trường hợp chuyển sang
gây tê NMC, không có trường hợp nào phải chuyển sang gây mê nội khí quản. 92,14% trường hợp không đau
sau mổ. 100% em bé đều có sức khỏe tốt. Các tác dụng không mong muốn chiếm tỉ lệ không đáng kể.
Kết luận: Kỹ thuật CSE đạt hiệu quả tốt và an toàn trong MLT chọn lọc.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng để giảm đau trong và sau mổ lấy thai chọn lọc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 390
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG KẾT HỢP GÂY TÊ
NGOÀI MÀNG CỨNG ĐỂ GIẢM ĐAU TRONG VÀ SAU MỔ LẤY THAI
CHỌN LỌC
Đào Thị Bích Phượng*, Nguyễn Văn Chừng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của kỹ thuật gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng
(CSE) để giảm đau trong và sau mổ lấy thai (MLT) chọn lọc.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả, cắt ngang. Nghiên cứu 140 sản phụ có chỉ định MLT chọn
lọc được thực hiện kỹ thuật CSE để mổ tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 09/2009 đến tháng 03/2010.
Thu thập các số liệu về hiệu quả quả giảm đau trong mổ và sau mổ, các tác dụng không mong muốn, sức
khỏe của trẻ sơ sinh.
Kết quả: Nghiên cứu trên 140 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai có chọn lọc, đạt kết quả như sau: Tỉ lệ thành
công 96,43%. Hiệu quả giảm đau trong mổ tốt 86,43%, trung bình 10,00%, có 3,57% trường hợp chuyển sang
gây tê NMC, không có trường hợp nào phải chuyển sang gây mê nội khí quản. 92,14% trường hợp không đau
sau mổ. 100% em bé đều có sức khỏe tốt. Các tác dụng không mong muốn chiếm tỉ lệ không đáng kể.
Kết luận: Kỹ thuật CSE đạt hiệu quả tốt và an toàn trong MLT chọn lọc.
Từ khóa: Kỹ thuật CSE, MLT chọn lọc.
ABSTRACT
EVALUATE EFFICACITY OF COMBINED SPINAL - EPIDURAL ANESTHESIA TO
INTRAOPERATIVE AND POSTOPERATIVE PAIN MANAGEMENT FOR ELECTIVE CESAREAN
DELIVERY
Dao Thi Bich Phuong, Nguyen Van Chung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 390 - 396
Objective: To evaluate efficacity and safety of combined spinal – epidural anesthesia (CSE) to intraoperative
and postoperative pain management for elective cesarean delivery.
Methods: A prospective cross – sectional study. Study was conducted on 140 pregnant women who had
indications about the elective cesarean delivery and were operated with CSE at Hung Vuong hospital from
9/2009 to 3/ 2010. Data collection comprised of intraoperative and postoperative pain relief effect assessment, the
unwanted side-effects and health of newborns.
Results: Success rate of the technique was 96.43%. Pain relief efficacy during surgeries was: good 86.43%,
average 10.00%, 3.57% of the cases was transferred to epidural anesthesia and no case was required general
anesthesia. 92.14% of the cases was painless after surgery. All of babies have been in a good health. The unwanted
side-effects were a negligible proportion.
Conclusion: CSE technique have good and safe results in elective cesarean delivery.
Keywords: CSE technique, elective cesarean delivery.
∗ Bệnh viện Hùng Vương TP. HCM
**Phân môn Gây mê Hồi sức - Bộ môn Ngoại - ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS Đào Thị Bích Phượng, ĐT: 0989970625, Email: dtbphuong2004@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 391
MỞ ĐẦU
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu gây tê tủy
sống (TS) – ngoài màng cứng (NMC) phối hợp
(CSE: Combined Spinal – Epidural anesthesia)
trong MLT nhằm giảm liều thuốc tê bơm vào
TS và NMC đồng thời kết hợp những ưu điểm,
hạn chế những khuyết điểm của từng phương
pháp gây tê TS và gây tê NMC đơn thuần để
có thể đạt được chất lượng gây tê tốt hơn,
giảm nguy cơ ngộ độc thuốc tê, ổn định huyết
động, an toàn cho trẻ sơ sinh và kéo dài thời
gian phong bế trong mổ khi cần. Ngoài ra, duy
trì giảm đau sau mổ qua catheter NMC tạo
cảm giác hài lòng cho người mẹ, sản phụ có
thể vận động sớm và tránh được một số tai
biến sau mổ, giúp hồi phục nhanh.
Mặc khác, chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này trên những trường hợp MLT chọn lọc, đó
là những trường hợp có chỉ định MLT không
phải cấp cứu trên những sản phụ không có
những bệnh lý nội khoa nặng kèm theo. Theo
Harris (3) đây là loại phẫu thuật MLT trên
những thai kì bình thường mà đòi hỏi MLT
trước khi bất thường xảy ra. Chọn lựa những
trường hợp MLT chọn lọc như trên, chúng tôi
sẽ có thời gian để thực hiện kỹ thuật CSE một
cách hiệu quả nhất.
Mục tiêu nghiên cứu
1. Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của kỹ
thuật CSE trong và sau MLT.
2. Xác định liều lượng thuốc sử dụng thích
hợp cho kỹ thuật CSE trong MLT.
3. Đánh giá ảnh hưởng của kỹ thuật CSE
trên thai nhi qua chỉ số Apgar.
4. Đánh giá những tác dụng không mong
muốn của kỹ thuật này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả, cắt ngang.
Cỡ mẫu nghiên cứu
N = 140 trường hợp.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả các sản phụ có chỉ định MLT tại khoa
phẫu thuật – gây mê hồi sức bệnh viện Hùng
Vương trong thời gian từ tháng 09/2009 đến
tháng 03/2010.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các sản phụ có chống chỉ định gây tê vùng.
Bệnh lý về tim mạch: hẹp khít van 2 lá, thiểu
năng vành
Sản phụ được MLT cấp cứu (Sa dây rốn, thai
suy).
Sản giật, tiền sản giật nặng.
Nhau tiền đạo.
Sản phụ không đồng ý làm CSE.
Kỹ thuật CSE
Ghi nhận mạch, HA, nhịp thở, SpO2 trước
khi gây tê.
Tư thế sản phụ: Nằm nghiêng trái, tư thế
cong lưng tối đa.
Xác định khoang NMC bằng kỹ thuật mất
sức cản. Nếu quá 2 lần chọc kim Tuohy không
xác định được khoang NMC thì ngưng thực
hiện thủ thuật.
Dùng kim TS 27G xuyên qua lỗ sau của kim
Tuohy và chọc vào khoang dưới nhện.
Bơm vào TS 5mg Bupivacaine 0,5% + 25 mcg
Fentanyl.
Rút kim TS, luồn catheter vào khoang NMC.
Đặt sản phụ nằm ngửa lại.
Theo dõi mạch, HA và đánh giá mức tê
trong vòng 5 – 10 phút. Nếu huyết động học ổn
định có thể bắt đầu phẫu thuật.
Các chỉ số theo dõi
Trong mổ
Đánh giá tác dụng vô cảm
Ghi nhận thời gian từ lúc bơm hết thuốc tê
vào TS đến khi phong bế cảm giác đau đạt ở
mức T10.
Đánh giá thời gian ức chế cảm giác đau.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 392
Đánh giá mức độ giảm đau trong mổ qua 3
mức độ:Tốt: Sản phụ hoàn toàn không đau;
Trung bình: Sản phụ đau nhẹ, phải thêm thuốc;
Kém: Sản phụ không chịu được, phải chuyển
sang phương pháp vô cảm khác.
Nếu giảm đau trong mổ ở mức độ trung
bình thì bơm thêm 40 mg Lidocaine 2% qua
catheter NMC mỗi 10 phút. Nếu giảm đau trong
mổ mức độ kém thì bơm 320 – 360 mg Lidocaine
2% qua catheter NMC để mổ và xem như gây tê
NMC để mổ, như vậy kỹ thuật CSE thất bại.
Chúng tôi ghi nhận kỹ thuật CSE thành công
khi sản phụ mất cảm giác sờ nhẹ và mất cảm
giác vận động sau khi thực hiện xong kỹ thuật,
mức độ giảm đau trong mổ đạt tốt hoặc trung
bình, không cần phải chuyển sang phương pháp
vô cảm khác. Kỹ thuật CSE thất bại khi sản phụ
không mất vận động hai chân sau khi thực hiện
kỹ thuật hoặc mức độ giảm đau trong mổ kém.
Đánh giá sự thay đổi huyết động
Ghi nhận sự thay đổi HA, mạch trước khi
gây tê và mỗi 5 phút sau đó.
Đánh giá sự thay đổi về hô hấp
Ghi nhận sự thay đổi nhịp thở, SpO2 trước
khi gây tê và mỗi 5 phút sau đó.
Chỉ số Apgar ở trẻ sơ sinh
Sau mổ
Tiếp tục cho giảm đau sau mổ với 50 ml
dung dịch Bupivacaine 0,1% + Fentanyl 1mcg/
ml bơm điện qua catheter NMC với tốc độ 8
ml/giờ.
Đánh giá mức độ đau của sản phụ sau mổ
theo thang điểm VAS từ 0 (không đau) đến 10
(đau nhiều nhất) mỗi 30 phút trong giờ đầu, mỗi
1 giờ trong 3 giờ sau và mỗi 2 giờ trong những
giờ tiếp theo.
Đánh giá sự ức chế vận động
Theo thang điểm Bromage.
Đánh giá đau
Theo thang điểm đau VAS (Visual Analogue
Scales).
Các tai biến và các tác dụng không mong muốn
Dị cảm, thủng màng cứng, chảy máu qua
catheter, hạ HA, mạch chậm, buồn nôn – nôn,
ngứa, lạnh run, nhức đầu, đau lưng, bí tiểu.
KẾT QUẢ
Từ tháng 9/2009 đến tháng 3/2010 tại khoa
gây mê hồi sức bệnh viện Hùng Vương, chúng
tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 140 sản phụ có
chỉ định MLT, kết quả thu được như sau:
Bảng 1: đặc điểm chung.
Đặc điểm của
sản phụ
Trung bình Cao nhất Thấp nhất
Tuổi 28,84 ± 5,17 44 18
Chiều cao (cm) 154,52 ± 1,25 175 144
Cân nặng (kg) 61,52 ± 0,17 88 45
Bảng 2: các chẩn đoán trước mổ.
Các chẩn đoán trước mổ Số sản phụ Tỉ lệ%
Bất xứng đầu chậu 7 5,00
Con quí 3 2,14
Con to 4 2,86
Con so lớn tuổi 9 6,43
Khởi phát chuyển dạ thất bại 4 2,86
Ngôi mông 25 17,86
Ngôi trán 7 5,00
Ối vỡ non 3 2,14
Ối vỡ sớm 2 1,43
Song thai 2 1,43
Thai chậm tăng trưởng 7 5,00
Thai trình ngưng tiến 12 8,57
Vết mổ cũ 55 39,28
Tổng cộng 140 100
Bảng 3: Thời gian MLT.
Trung bình Ngắn nhất Dài nhất
35,70 ± 3,48 phút 30 phút 75 phút
Bảng 4: Thời gian thực hiện kỹ thuật CSE.
Trung bình Ngắn nhất Dài nhất
6,50 ± 2,52 phút 4 phút 12 phút
Tỉ lệ thành công của kỹ thuật CSE
Có 5 trường hợp thất bại trong 140 trường
hợp nghiên cứu, chiếm tỉ lệ 3,57%. Chúng tôi đã
chuyển sang gây tê NMC đơn thuần để mổ.
Có 7 trường hợp chúng tôi gặp khó khăn khi
thực hiện kỹ thuật CSE, chiếm tỉ lệ 5,00%.
+ 5 trường hợp thực hiện kỹ thuật CSE trên 2
đốt sống khác nhau.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 393
+ 2 trường hợp thủng màng cứng khi đang
xác định khoang NMC. Với những trường hợp
này, chúng tôi tiếp tục thực hiện kỹ thuật CSE
cách 1 đốt sống phía trên thì kỹ thuật diễn ra
thuận lợi.
Không có trường hợp nào chảy máu qua
catheter NMC. Có 4 trường hợp (2,86%) sản phụ
có cảm giác dị cảm khi luồn catheter.
Sự thay đổi nhịp tim của sản phụ
92.1 91.22 90.17
86.12
82.88
82.12 82.86
80.96 80.18
78.85 78.8
77.15 77.02
75
80
85
90
95
Sự thay đổi HA của sản phụ
113.65
102.82
101.12 98.82 98.10 99.21 92.55 93.76 90.12 92.11 90.20
90.63
90.78
67.15 66.03 64.61 65.33 65.21 64.15 64.75 63.13 64.97 64.88 62.79 62.98 62.77
50.00
60.00
70.00
80.00
90.00
100.00
110.00
120.00
HA tâm thu HA tâm trương
Sự thay đổi hô hấp của sản phụ
Mạch (lần/ phút)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 394
Bảng 5: Thời gian ức chế cảm giác.
Ngắn nhất Dài nhất Trung bình
Thời gian (phút) 105 145 114,12 ± 16,31
Bảng 6: Thời gian ức chế vận động.
Ngắn nhất Dài nhất Trung bình
Thời gian (phút) 89 125 97,28 ± 13,01
Mức độ phong bế vận động sau mổ
Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% sản phụ
theo thang điểm Bromage là độ 0, tức cử động
các khớp bình thường.
Thang điểm đau (VAS).
92,14 %
7,86 %
Không đau
Đau ít
Chỉ số Apgar của trẻ sơ sinh
100% em bé đều có sức khỏe tốt.
0
5
10
15
20
Hạ HA
Buồn
nôn-
nôn
7.14
4.29
3.57
12 86
1.42%2.14%
0%
BÀN LUẬN
Đánh giá sự thành công của kỹ thuật CSE
Trong 140 trường hợp nghiên cứu, không có
trường hợp nào xảy ra tai biến nặng, sản phụ
thích nghi tốt với phương pháp vô cảm trong
khi phẫu thuật, không có trường hợp nào phải
chuyển sang gây mê nội khí quản. Các trường
hợp kỹ thuật CSE thất bại chúng tôi bơm thêm
thuốc tê vào catheter NMC để mổ. Qua đó ta
thấy được tính linh động của kỹ thuật CSE, đó
cũng chính là ưu điểm của kỹ thuật này.
Theo tác giả Michael Paech(10) thì CSE là một
kỹ thuật tốt trong MLT, tỉ lệ thất bại chung của
kỹ thuật CSE trong MLT ít hơn một cách có ý
nghĩa so với tê NMC hay tê TS đơn thuần. Mặt
khác, gây tê là phương pháp an toàn và có một
số thuận lợi có ý nghĩa so với gây mê toàn diện
trong MLT.
Chọn lựa liều thuốc tê thích hợp
Mức phong bế cảm giác trên T10 sẽ đủ vô
cảm để MLT. Mặt khác, thời gian MLT không
lâu nên trong nghiên cứu này chúng tôi lựa
chọn liều thuốc tê là 5 mg Bupivacaine 0,5% +
25 mcg Fentanyl để đạt được mức tê này và
thể tích trung bình Lidocaine 2% bổ sung qua
gây tê NMC để tăng mức phong bế và kéo dài
thời gian vô cảm là 53 ± 19 mg (tối thiểu là 0
mg và tối đa là 320 mg) đủ cho phong bế vô
cảm để MLT là 31,70 ± 1,48 phút. So với thể
tích Bupivacaine 0,5% trong tê TS đơn thuần là
15 mg hay từ 10 – 12,5 mg khi có phối hợp với
dẫn xuất của Morphiniques(8) hoặc liều
Lidocaine 2% trong gây tê NMC đơn thuần là
339, 45 ± 15,97 mg(11) trong khi liều thuốc tê sử
dụng trong kỹ thuật CSE thấp hơn.
Sự phối hợp của Bupivacaine và thuốc
nghiện sẽ cải thiện sự giảm đau hơn so với
việc sử dụng các thuốc này dùng riêng lẻ và có
thể xem đây là phương pháp tốt nhất. Giảm
liều Bupivacaine giúp giảm nguy cơ hạ HA,
nhưng nó làm tăng nguy cơ thất bại vì có thể
sẽ không ức chế đầy đủ cảm giác đau. Các tác
giả Ben David B(2) và C. Olofsson. E-B,
Nygards(9) cũng đã khuyến cáo nên phối hợp
thêm thuốc nghiện khi gây tê để phòng ngừa
thất bại. Với 25 mcg Fentanyl, nhiều tác giả
chứng minh nó thực sự có hiệu quả và an toàn,
đặc biệt là không ảnh hưởng đến chức năng hô
hấp của em bé trong MLT.
Khi duy trì vô cảm trong phẫu thuật, chúng
tôi sử dụng Lidocaine 2% tiêm NMC vì tác dụng
nhanh, mạnh, thời gian tác dụng trung bình kéo
dài của loại thuốc tê này. Ngoài ra, liều gây co
giật do ngộ độc Lidocaine rất xa với liều gây
ngưng tim, tránh tình trạng ngộ độc
Bupivacaine khi có thủng màng cứng mà chúng
ta không biết.
Số trường hợp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 395
Trong nghiên cứu của chúng tôi, liều lượng
thuốc tê được lựa chọn cũng nằm trong giới
hạn mà các tác giả Fan(6), Choi(4), Ben – David(1)
Van de Velde(13) đã nghiên cứu và cho kết quả
tương tự.
Dùng thuốc giảm đau sau mổ
Trong giảm đau sau mổ, chúng tôi dùng
Bupivacaine với nồng độ rất thấp 0,1% và thể
tích nhỏ 8 ml/giờ nên không ngại gây ngộ độc
và vì Bupivacaine có tác dụng kéo dài, phong bế
cảm giác mạnh hơn vận động, do đó
Bupivacaine có tác dụng giảm đau tốt hơn
Lidocaine và thời gian tác dụng dài hơn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi
cũng sử dụng Bupivacaine 0,1% và Fentanyl 1
mcg/ml bơm điện liên tục qua catheter NMC với
tốc độ 8ml/giờ. Với liều dùng này số trường hợp
không đau chiếm tỉ lệ 92,14%, số trường hợp
đau ít chiếm tỉ lệ 7,86%, không có trường hợp
nào phải dùng thêm thuốc giảm đau khác hay
phải tăng tốc độ bơm tiêm điện. Như vậy kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với
các kết quả nghiên cứu khác.
Hiệu quả giảm đau của kỹ thuật CSE
Trong mổ
Thời gian phong bế cảm giác đau đến T10 là
4,34 ± 1,01 phút, thời gian bắt đầu ức chế vận
động trung bình là 5,23 ± 1,12 phút. Như vậy,
với thời gian phong bế vận động và ức chế cảm
giác như trên, phẫu thuật viên có thể bắt đầu
rạch da để mổ sau khi đã chuẩn bị trải khăn vô
khuẩn mà không phải chờ đợi lâu. Mặt khác,
đường mổ phổ biến là đường ngang trên xương
vệ và mổ ngang tử cung, do đó mức độ dãn cơ
và giảm đau của tê TS đủ để mổ.
Kết quả giảm đau trong phẫu thuật tốt
chiếm 86,43%, trung bình chiếm 10,00%, có
3,57% trường hợp giảm đau trong phẫu thuật
kém, phải chuyển sang gây tê NMC, không có
trường hợp nào phải chuyển sang gây mê nội
khí quản. Kết quả này cũng tương tự những kết
quả nghiên cứu của các tác giả Bend David
&Fan(1), Choi D.H.(4), Coppejans. H.C.(5), Kinsella
S.M.(7), Vande Velde M(12).
Sau mổ
Thời điểm mà chúng tôi thực hiện giảm đau
sau mổ qua catheter NMC là khi sản phụ phục
hồi lại vận động hoàn toàn (Bromage = 0) nhưng
chưa có cảm giác đau. Tốc độ bơm thuốc giảm
đau qua catheter NMC là 8 – 10 ml/giờ tùy theo
mức độ đau của sản phụ mà chúng tôi chỉnh tốc
độ bơm điện. Với tốc độ bơm này và với nồng
độ Bupivacaine 0,1% và Fentanyl 1 mcg/ml qua
catheter NMC, tất cả các trường hợp đều giảm
đau tốt, không cần phải sử dụng thêm các thuốc
giảm đau khác.
Có 92,14% trường hợp không đau sau mổ,
các trường hợp còn lại sản phụ bị đau ít, chúng
tôi không sử dụng thêm thuốc giảm đau nào
khác. MLT là một phẫu thuật ít ảnh hưởng đến
các tạng trong ổ bụng, thời gian mổ tương đối
nhanh nên hạn chế tối đa sự đau đớn cho sản
phụ. Điều này cũng góp phần làm cho việc sử
dụng liều lượng Bupivacaine và Fentanyl qua
catheter NMC với tốc độ bơm như trên đạt hiệu
quả. Công trình nghiên cứu của chúng tôi đạt
kết quả tốt. Hiệu quả của phương pháp giảm
đau qua catheter NMC giảm được những đáp
ứng của cơ thể đối với stress phẫu thuật, tạo tâm
lý an tâm, thoải mái cho sản phụ sau mổ.
KẾT LUẬN
Kỹ thuật CSE ít làm thay đổi huyết động học
và hô hấp, cho hiệu quả giảm đau tốt và an toàn.
Liều lượng thuốc sử dụng đáp ứng được
nhu cầu vô cảm trong MLT và đạt hiệu quả
giảm đau sau mổ tốt.
Liều lượng thuốc đã dùng không ảnh hưởng
đến sức khỏe của thai nhi.
Các tác dụng không mong muốn chiếm tỉ lệ
không đáng kể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Ben DB et al. (2000). “Low dose bupivacaine – fentanyl spinal
anesthesia for cesarean delivery”. Reg Anesth Pain Med, 25 (3),
pp. 235 –239.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 396
2 Ben DB, Frankel R. (2000). “Minidose Bupivacaine – Fentanyl
spinal anesthesia for surgical repair of hip fracture in the
aged”. Anesthesiology, pp. 6 – 10.
3 Chestnut DH (2004). Obstetric anesthesia – principles and
practice. Third edition, pp. 15 – 36, 455.
4 Choi DH, Ahn HJ., Kim JA (2006). “Combined low dose spinal
– epidural anesthesia versus single – shot spinal anesthesia for
elective cesarean delivery”. Int J Obstet anesth, 15 (1), p. 13 –
17.
5 Coppejans. HC et al. (2000). “The sitting versus right lateral
position during combined spinal – epidural anesthesia for
cesarean delivery: block characteristics and severity of
hypotention”. Anesth analg, 102 (1), pp. 243 – 247.
6 Fan SZ, Susetio L, Wang YP, Liu CC (1994). “Low dose of
intrethecal hyperbaric Bupivacaine combines with epidural
Lidocaine for cesarean section – a balance block technique”.
Anesth analg, pp. 474 – 477.
7 Kinsella SM (2008). “A propective audit of regional
anaesthesia failure in 5080 caesarean sections”. Anaesthesia,
68, pp. 822 – 832.
8 Norris MC (2000). Handbook of obstetric anesthesia.
Lippincott Williamm and wilkins, pp. 213 – 229, 242 – 249, 307
– 324.
9 Olofsson C, Nygards EB (2000). “Low – dose bupivacaine with
sufentanyl prevents hypotension after spinal anesthesia for hip
repair in elderly patient”. Ada Anestheial Scand, 48, pp. 1240 –
1244
10 Paech M (2000). Regional anaesthesia and pain management.
BI Churchill Livingstore, pp. 195.
11 Phạm Tài Phú Vinh (2009). “Đánh giá hiệu quả gây tê NMC để
giảm đau trong và sau mổ sản phụ khoa”. Tạp chí y học
TPHCM, tập 14 (1), tr. 223 – 226.
12 Van de Velde M, Berends N, Spitz B, Tenkens A,
Vandernersen E (2004). “Low – dose combined spinal epidural
anaesthesia versus conventional epidural anaesthesia for
Ceasarean section in pre eclampsia: a retrospection analyse”.
Eur J. Anaesthesiol, pp. 454 – 459.
13 Van de Velde M. et al. (2006). “Combined spinal epidural
anesthesia for cesarean delivery: dose − dependent effects of
hyperbaric bupivacaine on matemal hemodynamics”. Anesth
Analg, 103 (1), pp. 183 – 190.