Mở đầu và mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân lọc máu định
kỳ ngoại trú tại khoa Thận‐Lọc máu, bệnh viện Thống Nhất, tp HCM.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, quan sát và mô tả. 75
bệnh nhân (BN) suy thận mạn (STM) giai đoạn 5 lọc máu định kỳ ngoại trú với tuổi trung bình 65,33±12,98
trong khoảng thời gian từ 9/2009‐3/2010 Phương pháp xử lý và phân tích các số liệu: các số liệu được nhập và
xử lý với các thuật toán thông thường bằng phần mềm thống kê SPSS 13.0 for Window.
Kết quả: Tỷ lệ tăng huyết áp ở bệnh nhân đang lọc máu định kỳ: 84%. 16% bệnh nhân đạt huyết áp trước
lọc < 140/90 mmHg. 72% bệnh nhân lọc máu có sử dụng thuốc hạ huyết áp. Trong số bệnh nhân lọc máu có tăng
huyết áp, tỷ lệ bệnh nhân không phải sử dụng thuốc hạ áp nào là 14,3%. Tỷ lệ bệnh nhân có sử dụng 1, 2, 3, 4
loại thuốc hạ áp lần lượt là 20,6%, 27%, 30,2% và 7,9%.
Kết luận: hiệu quả điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân lọc máu định kỳ còn hạn chế: tỷ lệ rất thấp bệnh
nhân có huyết áp đạt mục tiêu điều trị mặc dù phần lớn bệnh nhân phải dùng 1 hay nhiều loại thuốc hạ áp
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân lọc máu định kỳ ngoại trú tại Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013
335
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP Ở BỆNH NHÂN
LỌC MÁU ĐỊNH KỲ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT TP. HCM
Lê Ngọc Trân*, Nguyễn Bách*
TÓM TẮT
Mở đầu và mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân lọc máu định
kỳ ngoại trú tại khoa Thận‐Lọc máu, bệnh viện Thống Nhất, tp HCM.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, quan sát và mô tả. 75
bệnh nhân (BN) suy thận mạn (STM) giai đoạn 5 lọc máu định kỳ ngoại trú với tuổi trung bình 65,33±12,98
trong khoảng thời gian từ 9/2009‐3/2010 Phương pháp xử lý và phân tích các số liệu: các số liệu được nhập và
xử lý với các thuật toán thông thường bằng phần mềm thống kê SPSS 13.0 for Window.
Kết quả: Tỷ lệ tăng huyết áp ở bệnh nhân đang lọc máu định kỳ: 84%. 16% bệnh nhân đạt huyết áp trước
lọc < 140/90 mmHg. 72% bệnh nhân lọc máu có sử dụng thuốc hạ huyết áp. Trong số bệnh nhân lọc máu có tăng
huyết áp, tỷ lệ bệnh nhân không phải sử dụng thuốc hạ áp nào là 14,3%. Tỷ lệ bệnh nhân có sử dụng 1, 2, 3, 4
loại thuốc hạ áp lần lượt là 20,6%, 27%, 30,2% và 7,9%.
Kết luận: hiệu quả điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân lọc máu định kỳ còn hạn chế: tỷ lệ rất thấp bệnh
nhân có huyết áp đạt mục tiêu điều trị mặc dù phần lớn bệnh nhân phải dùng 1 hay nhiều loại thuốc hạ áp.
Từ khoá: tăng huyết áp, lọc máu định kỳ
ABSTRACT
ASSESSMENT OF THE EFFCIENCY OF HYPERTENSIVE TREATMENT
IN CHRONIC HEMODIALYSIS PATIENTS IN THONG NHAT HOSPITAL
Le Ngoc Tran, Nguyen Bach * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 335 ‐ 339
Background and objectives: Evaluating the efficiency of hypertensive treatment in chronic hemodialysis
patients in Thong Nhat Hospital, Ho Chi Minh City.
Patients and methods: This is a prospective and cross sectional study. 75 chronic hemodialysis (CHD)
patients with the mean age of 65.33±12.98 in the Nephrology and Dialysis Department, Thong Nhat Hospital in
the period of 9/2009‐3/2010 were enrolled the study. Statistical analysis: SPSS 13.0.
Results: Prevalence of hypertension in chronic hemodialysis patients was 84%. 16% chronic hemodialysis
patients had pre‐HD blood pressure < 140/90 mmHg. Antihypertensive drugs were prescribed in 72%
hemodialysis patients. Among hypertensive patients, percentage of patients without any antihypertensive drugs
was only 14.3%. Percentage of patients with 1, 2, 3 and 4 kinds antihypertensive agents was 20.6%, 27%,
30.2% and 7.9% respectively.
Conclusions: the efficiency of hypertensive treatment in chronic hemodialysis patients was very limited.
Very low rate of chronic hemodialysis was controlled hypertension as target although many hypertensive agents
were prescribed.
Key words: hypertension, chronic hemodialysis patients
* Bệnh Viện Thống Nhất Tp HCM
Tác giả liên lạc: TS. BSCK II. Nguyễn Bách, ĐT: 38690104, Email: bachnguyen32@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013
336
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp ở bệnh nhân suy thận mạn
lọc máu rất khó điều trị do vậy tỷ lệ bệnh nhân
lọc máu có tăng huyết áp rất cao (70‐80%) kể cả
ở các nước phát triển. Phần lớn bệnh nhân lọc
máu chưa kiểm soát được huyết áp tốt. Ngoài
ra, một vấn đề khó khăn khác là thời điểm đo
huyết áp (trước lọc máu hay giữa 2 kỳ lọc máu,
hay huyết áp 24 giờ...) để đánh giá tăng huyết áp
thực sự và đích huyết áp cần đạt được ở bệnh
nhân lọc máu vẫn chưa được thống nhất.
Kiểm soát tăng huyết áp rất quan trọng, có ý
nghĩa sống còn đối với bệnh nhân lọc máu định
kỳ, giúp giảm biến cố tim mạch và biến chứng
phì đại thất trái, vốn là nguyên nhân gây tử
vong hàng đầu ở bệnh nhân lọc máu. Các
nghiên cứu đoàn hệ với số lượng lớn bệnh nhân
lọc máu cho thấy có mối liên quan giữa tăng
huyết áp và tử vong do biến cố tim mạch(3).
Kiểm soát huyết áp bệnh nhân lọc máu cần đảm
bảo cả 2 yếu tố đạt được huyết áp tối ưu (đích)
và không gây ra hạ huyết áp trong lọc máu.
Thông thường bệnh nhân lọc máu cần phải
dùng thêm một hay nhiều loại thuốc hạ áp mới
kiểm soát được huyếp áp. Tuy nhiên, nếu đưa
huyết áp đạt được đích thấp như các bệnh nhân
thông thường thì dễ xảy ra biến chứng hạ huyết
áp trong lọc máu.
Nghiên cứu này được thực hiện cắt ngang
trên những bệnh nhân suy thận mạn lọc máu
định kỳ ngoại trú tại Khoa Thận‐Lọc máu, bệnh
viện Thống Nhất, tp HCM với mục tiêu: đánh
giá hiệu quả của điều trị tăng huyết áp ở bệnh
nhân lọc máu định kỳ ngoại trú tại khoa Thận‐
Lọc máu, bệnh viện Thống Nhất, tp HCM
BỆNH NHÂN ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân
75 bệnh nhân (BN) suy thận mạn (STM) giai
đoạn 5 lọc máu định kỳ ngoại trú tham gia vào
nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 9/2009‐
3/2010. Tiêu chuẩn chọn bệnh: (1) STM giai đoạn
5 điều trị bằng lọc máu định kỳ ngoại trú > 6
tháng, (2) Không mắc các bệnh lý cấp tính như
nhiễm khuẩn, tai biến mạch não, nhồi máu cơ
tim cấp, ung thư, xơ gan; (3) Tuân thủ đầy đủ
điều trị nội khoa và chương trình lọc máu và
không đổi trung tâm lọc máu (4) BN và gia đình
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu, cắt ngang, quan sát và mô tả. Các
tiêu chuẩn được áp dụng trong nghiên cứu:
THA ở bệnh nhân lọc máu được định nghĩa
khi có 1 trong 3 yếu tố sau: HA tâm thu trước lọc
≥ 140 mmHg, HA tâm trương trước lọc ≥ 90
mmHg hoặc huyết áp ở mức bình thường
nhưng phải điều trị bằng thuốc hạ áp ≥ 3
tháng(5).
HA được kiểm soát chưa tốt khi HA tâm thu
trước lọc ≥ 140 mmHg và hoặc HA tâm trương
trước lọc ≥ 90 mmHg(5).
Tiêu chuẩn chẩn đoán STM: theo hiệp hội
thận học quốc tế (8).
Chỉ số lọc máu đủ kt/v ure: dựa vào công
thức Daugridas(6).
kT/V = ‐ln (R‐0.008 x t)+(4‐3.5x R) x 0.55x
UF/V
Trong đó: R= 1‐ URR, T: thời gian lọc (giờ),
UF: lượng dịch rút (kg), V: thể tích phân bố ure
trong cơ thể dựa theo cân nặng, chiều cao (lít).
Kt/V= 1,2‐1,4 được xem là lọc máu đủ.
Chương trình lọc máu áp dụng cho BN
trong nghiên cứu: dịch lọc bicarbonate với tốc
độ 500ml/p; lưu lượng máu cài đặt = 50 x trọng
lượng khô; T = 4 giờ/ lần x 3 lần/tuần; chống
đông với liều chuẩn bằng enoxaparin hoặc
heparin. Màng lọc: có tính thấm thấp (low‐flux:
LF) hoặc tính thấm cao (high‐flux: HF).
Tiêu chuẩn đánh giá thiếu máu: dựa vào
nồng độ Hb (g/dl); Hb > 10g/dl là đạt. Liều EPO
dùng theo cách tính = 50‐100 UI/kg cân nặng x 2‐
3 lần /tuần, điều chỉnh theo nồng độ Hb.
Tiêu chuẩn chẩn đoán tăng đường máu: theo
hiệp hội đái tháo đường quốc tế (2005)(4). Tăng
đường máu tĩnh mạch khi đói ≥ 110 mg/dL (≥ 6,1
mmol/L) hoặc trước đây đã được chẩn đoán đái
tháo đường type 2.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013
337
Đánh giá dinh dưỡng: dựa vào nồng độ
albumin huyết thanh đo bằng phương pháp
điện di, bình thường: 35‐50g/dl.
Đánh giá rối loạn lipid máu: dựa vào
khuyến cáo của ADA 2010. BN được đánh giá là
có rối loạn lipid máu khi có 1 hoặc nhiều thành
phần lipid ở giới hạn có nguy cơ. BN được đánh
giá là không có rối loạn lipid máu khi cả 4 thành
phần lipid đều có giá trị bình thường(1).
Đánh giá CPG: dựa vào các tiêu chuẩn sau:
(1) Tiêu chuẩn chính: tăng PTH (bình thường 15‐
65 pg/ml) > 250‐300 pg/ml: chẩn đoán CPG; >
1000 pg/ml: CPG mức độ nặng. (2) Tiêu chuẩn
phụ: tăng P máu (bình thường: 0,9‐1,5 mmol/l)
Xử lý số liệu thống kê
Dựa theo các thuật toán thống kê y học
thông thường với phần mềm SPSS 13.0.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm của bệnh nhân lọc máu định kỳ
trong mẫu nghiên cứu
Đặc điểm Trị trung bình/Tỷ lệ(%) (n=75)
Tuổi ( X ± SD) 65,33±12,98
BN ≥ 60 tuổi 53(70,7)
BN ≥ 75 tuổi 19(25,3)
Giới nam, n (%) 45(60)
Thời gian lọc máu (tháng) ( X ±SD) 36,53±29
Thời gian lọc máu ≥ 5 năm, n (%) 11(14,7)
Trọng lượng khô (kg) ( X ±SD) 52,91±8,44
Nguyên nhân STM
- Đái tháo đường 20(26,67)
- THA 25(33,33)
- Gout 5(6,67)
- Viêm cầu thận mạn 7(9,33)
- Chưa rõ nguyên nhân 18(24)
Chỉ số lọc máu đủ kt/v ( X ± SD) 1,26±0,21
Kt/v ≥ 1,2 48(64)
URR ≥ 60% 58(77,3)
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân lọc máu
có tăng huyết áp.
Đặc điểm
BN có THA
(n=63)
BN không
THA (n=12) p
Tuổi ( X ±SD) 64,43±13,37 70,08±9,84 >0,05
Đặc điểm
BN có THA
(n=63)
BN không
THA (n=12) p
Giới nam, n (%) 37(58,73) 8(66,67) >0,05
Thời gian lọc máu (tháng)
( X ±SD)
34±25,48 49,83±42,08 >0,05
Đái tháo đường, n(%) 18(28,57) 2(16,67) >0,05
Sử dụng màng lọc Low-
flux, n (%) 41(65,08) 7(58,33) >0,05
Bảng 3. Đặc điểm cận lâm sàng của bệnh nhân lọc
máu có tăng huyết áp.
Đặc điểm BN có THA (n=63)
BN không có
THA (n=12) p
RLLM, n (%) 47(74,6) 8(66,67) >0,05
Kt/V ( X ±SD) 1,26±0,21 1,29±0,20 >0,05
Albumin (g/dL)
( X ±SD)
3 38,27±4,15 39,71±6,07 >0,05
P (trước lọc, mmol/L)
( X ±SD)
2,1±0,69 2,3±0,83 >0,05
PTH
(trước lọc, pg/mL)
Trung vị 278,07 294,54
>0,05Khoảng tứ vị
(25%-75%) 101,5-324,9 135,23-547,75
β2 microglobulin 35,84±13,72 31,11±15,83 >0,05
Hb (g/dL) 10,90±1,42 11,06±1,31 >0,05
Liều EPO 108,58±41,65 102,66±57,71 >0,05
84
16
0
20
40
60
80
100
Tỷ lệ bệnh nhân lọc
máu có tăng huyết áp
Tăng HA
Không tăng HA
Biểu đồ 1. Tỷ lệ tăng huyết áp ở bệnh nhân lọc máu
định kỳ
Bảng 4. Hiệu quả điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân
lọc máu có tăng huyết áp
Đích HA đạt được Số bệnh nhân (tỷ lệ %) (n=63)
HA trước lọc < 130/80 mmHg 4(6,3)
HA trước lọc < 140/90 mmHg* 10(16)
HA trước lọc < 140/90 mmHg và
HA sau lọc < 130/80 mmHg 1(1,54)
HA trước lọc <160/90 mmHg 60(95,2)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013
338
28
72
0
20
40
60
80
Tỷ lệ BN lọc máu
dùng thuốc hạ áp
Không dùng
thuốc hạ áp
Có dùng thuốc
hạ áp
Biểu đồ 2. Tỷ lệ bệnh nhân lọc máu có sử dụng thuốc
hạ huyết áp.
Bảng 5. Số thuốc hạ áp được sử dụng ở bệnh nhân
lọc máu có tăng huyết áp
Sử dụng thuốc hạ huyết áp Số BN/tỷ lệ (%) (n=63)
Không dùng thuốc hạ áp 9(14,3)
Dùng 1 loại thuốc hạ áp 13(20,6)
Dùng 2 loại thuốc hạ áp 17(27)
Dùng 3 loại thuốc hạ áp 19(30,2)
Dùng 4 loại thuốc hạ áp 5(7,9)
BÀN LUẬN
So sánh giữa 2 nhóm BN lọc máu có THA và
không THA, kết quả ở bàng 2 và 3 cho thấy
nhận thấy không khác biệt về tuổi, thời gian lọc
máu, tăng cân giữa 2 lần lọc máu và các biến đổi
cận lâm sàng khác như chỉ số lọc máu đủ, rối
loạn lipid máu, tăng PTH. Cần nghiên cứu trên
mẫu lớn hơn để đánh giá chính xác vai trò của
các yếu tố này trong cơ chế bệnh sinh của THA.
Dựa theo tiêu chuẩn THA ở BN lọc máu của
hội thận học quốc tế, nghiên cứu này cho thấy có
đến 84% BN lọc máu định kỳ có THA (biểu đồ
1). Tỷ lệ này cũng tương đương với các tác giả
khác. Theo nhiều nghiên cứu trước đây, tỷ lệ
THA ở BN lọc máu rất cao (72%)(7). Del Guidice
A và cộng sự nghiên cứu quan sát trong 1 tháng
tại Ý trên 89 BN lọc máu với tiêu chuẩn HA
trước lọc máu ≤ 140/90 mmHg và HA sau lọc ≤
130/80 mmHg được xem là bình thường. Kết
quả 55% có THA, chỉ có 14% BN đạt được HA
trước và sau lọc ở mức bình thường(2). Nghiên
cứu Steven Fishban cho thấy > 80% BN lúc khởi
đầu lọc máu có THA và nhiều BN vẫn còn THA
sau khi được lọc máu. Có 53% BN lọc máu
(>150/90 mmHg)(3). Cơ chế bệnh sinh THA ở BN
lọc máu chưa được hiểu biết đầy đủ, phức tạp
và có thể do nhiều yếu tố như thừa muối, quá tải
thể tích, vai trò của erythropoetin, ion hoá trị 2,
hocmon tuyến cận giáp, biến đổi nội mạc mạch
máu, hoạt động của hệ giao cảm
Bảng 4 minh hoạ rõ hơn về hiệu quả điều trị
THA ở BN lọc máu có THA theo các tiêu chuẩn
đánh giá THA khác nhau. Nếu lấy mức của Hội
Thận học quốc tế với HA trước lọc < 140/90
mmHg được xem là kiểm soát tốt HA, thì chỉ có
16% BN là được kiểm soát tốt. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của các tác giả Lin(7) và Poch
E(9). Lin J và cộng sự nghiên cứu trên 1382 BN từ
11 trung tâm lọc máu ở Thượng Hải, 809 nam và
573 nữ với định nghĩa THA khi HA ≥ 140/90
mmHg, hoặc có tiền tử THA và đang điều trị
thuốc HA mặc dù HA đang ở mức bình thường,
kiểm soát HA tốt khi HA trước lọc < 140/90
mmHg. Kết quả cho thấy tỷ lệ THA ở BN lọc
máu là 86,3%. Tỷ lệ kiểm soát tốt HA áp là
25,5%. Nghiên cứu cắt ngang, đa trung tâm của
Poch E ở Catalonia, Tây Ban Nha ở 387 BN lọc
máu định kỳ > 6 tháng từ 32 trung tâm, tuổi
trung bình 63±14, áp dụng định nghĩa THA khi
có 1 trong 3 yếu tố sau: HA tâm thu ≥ 140
mmHg, HA tâm trương ≥ 90 mmHg hoặc điều
trị bằng thuốc hạ áp > 3 tháng, kết quả cho thấy
tỷ lệ THA là 67,4% thay đổi tuỳ theo nguyên
nhân suy thận mạn.
Hiện chưa thống nhất được nên chọn HA
trước lọc, sau lọc hay trị số HA đo 24 giờ làm
tiêu chuẩn chẩn đoán THA và HA đích ở BN lọc
máu. HA trước lọc tuy phản ảnh ít chính xác
nhưng thường được dùng để đánh giá HA của
BN lọc máu vì dễ thực hiện, thuận lợi trong thực
hành. Trong nghiên cứu này, nếu chọn mốc HA
trước lọc < 130/80 mmHg như Hội Thận học
Anh quốc thì chỉ có 6,3% BN được kiểm soát tốt
HA !. Nếu áp dụng tiêu chuẩn kiểm soát HA tốt
của Hiệp hội Thận học Anh quốc dựa vào HA
trước lọc < 140/90 mmHg và HA sau lọc < 130/80
mmHg thì chỉ có 1 BN (1,54%) đạt mức này!.
Tuy nhiên, nếu dựa vào mốc HA trước lọc
<160/90 mmHg thì có đến 95,2% BN được kiểm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013
339
soát tốt HA. Nhiều nghiên cứu trước đây đều
cho thấy tỷ lệ tử vong cao ở những BN lọc máu
có HA tâm thu thấp, chứ không phải HA tâm
thu ở mức cao. Nghiên cứu của Poch E phân tích
thống kê Cox regression trên 24.525 BN và có
điều chỉnh nhiều yếu tố nhiễu. Tỷ lệ tử vong là
13% với mức HA trước lọc 130‐159 mmHg và
tăng lên 20% HA ở mức 110‐129. Có thể tỷ lệ tử
vong cao do hạ HA xảy ra trong lọc máu(9).
Về sử dụng thuốc hạ áp ở BN lọc máu: Biểu
đồ 1 và 2 cho thấy tỷ lệ THA cao (84%) nhưng tỷ
lệ BN dùng thuốc hạ áp thấp hơn (72%) do có
một số BN có THA nhưng không được dùng
thuốc hạ áp mặc dù HA chưa đạt đích điều trị.
Nguyên nhân do các BN này thường thích nghi
với HA cao dài ngày trước đó và có nguy cơ hạ
HA trong lọc nếu đưa HA về mức thấp hơn.
Nghiên cứu của Lin cho thấy tỷ lệ điều trị bằng
thuốc hạ áp cao hơn nghiên cứu của chúng tôi
(96,8%).
Khảo sát số lượng thuốc hạ HA được sử
dụng ở BN lọc máu có THA. Bảng 5 cho thấy
trong số 63 BN có THA, chỉ có 14,3% BN lọc
máu không dùng thuốc hạ áp nào và 85,7% BN
phải dùng ≥ 1 loại thuốc hạ áp nhưng HA vẫn
chưa kiểm soát được đích điều trị. Nguyên nhân
có thể do nhiều yếu tố như chính bệnh nguyên
gây suy thận mạn, kiểm soát muối, nước chưa
được tốt... Điều này cho thấy việc kiểm soát HA
đạt mục tiêu ở BN lọc máu rất khó. Kết quả này
cũng phù hợp với nghiên cứu của Lin J. Theo
nghiên cứu này, 50,4% BN điều trị với 1 loại
thuốc hạ áp, 34.4% BN điều trị với 2 loại thuốc
hạ áp, 14,2% BN điều trị với 3 loại thuốc hạ áp
và 1% BN điều trị với 4 loại thuốc hạ áp(7).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 75 BN lọc máu định kỳ
ngoại trú tại khoa Thận‐ Lọc máu, bệnh viện
Thống Nhất, nghiên cứu này rút ra được kết
luận sau: hiệu quả điều trị tăng huyết áp ở bệnh
nhân lọc máu định kỳ còn hạn chế: tỷ lệ rất thấp
bệnh nhân có huyết áp đạt mục tiêu điều trị mặc
dù phần lớn bệnh nhân phải dùng 1 hay nhiều
loại thuốc hạ áp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Diabetes Association (2010), Diagnosis and
classification of diabetes mellitus, Diabetes care, 33 (suppl 1),
S 62‐69.
2. Del Guidice A, Cicchella A, Di Giorgio (2012). Prevalence and
control of hypertension in chronic hemodialysis patients:
results of a single – centre clinical audit. G Ital Nepfrol, Mar‐
April, 29 (2) 230‐7.
3. Fishban S, Maesaka JK, Goreja MA (2000). Hypertension in
dialysis patients. In: Norbert Lamiere and Ravindra L. Mehta.
Complications of dialysis. 471‐484. McGraw‐ Hill, Inc.
4. International Diabetes Federation (2005), Global guideline for
type 2 diabetes”, pp. 8‐10.
5. K/DOQI guidelines for blood control (2004). Principles of
dialysis. In: Jeremy Levy. Oxford Handbook of Dialysis. 2th
Edition. Oxford Press. pp 48.
6. Levy J, Morgan J (2005). Principles of dialysis. In: Jeremy
Levy. Oxford Handbook of Dialysis. 3th Edition. pp 5‐15.
Oxford Press.
7. Lin J, Ding XQ, Lin P (2010). A multi‐center survey of
hypertension and its treatment in patients with maintenance
hemodialysis in Shanghai. Zhonghua Nei KeZa Zhi. Jul; 49 (7)
563‐7.
8. National Kidney Foundation (2008). Classification of CKD
based on GFR as proposed by the Kidney Disease Outcomes
Quality Initiative (KDOQI) guidelines and modified by NICE
in.
9. Poch E, Martinez X, Rodrigo JA, Tovar JL (2006).
Hypertension in hemodialysis: prevalance and associated
factors in Catalonia. The PRESDIAL study. Nefrologia; 26(5):
564‐72.
10. Robinson BM, Tong L, Zhang J, Wolfe RA (2012). Blood
pressure levels and mortality risk among hemodialysis
patients in the Dialysis Outcomes and Practice Patterns Study.
Kindney Int, Sep; 82(5): 570‐80.
11. UK Renal association standards: cardiovascular risk (2004).
Standards documents. In: Jeremy Levy. Oxford Handbook of
Dialysis. 2th Edition. pp 846. Oxford Press.
Ngày nhận bài báo 01‐7‐2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 08‐7‐2013
Ngày bài báo được đăng: 01‐8‐2013