Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả gây tê thần kinh ngoại biên với máy kích thích thần kinh trong phẫu thuật chi trên và chi dưới từ tháng 01/2010 đến tháng 10/2011 tại khoa GMHS, bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân phẫu thuật chi trên và chi dưới được gây tê bằng Bupivacaine 0,5% dưới hướng dẫn của máy kích thích thần kinh (gây tê gian cơ bậc thang, trên xương đòn, dưới xương đòn, vùng nách, thần kinh đùi, thần kinh tọa và kết hợp thần kinh tọa – đùi). Ghi nhận các biến số nghiên cứu liên quan đến phẫu thuật, phương pháp vô cảm, tỷ lệ thành công, mức độ khó của thủ thuật, tính an toàn và tác dụng phụ. Kết quả: Có 128 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu trong thời gian từ tháng 01/2011 đến tháng 10/2011. Thời gian thực hiện thủ thuật trung bình là 9,7 ± 4,6 phút. Số lần đâm kim trung bình là 1,6 ± 0,6 lần. Tỷ lệ thành công trong vô cảm phẫu thuật là 94,5%, tỷ lệ giảm đau hậu phẫu tốt là 96,8%. Tỷ lệ sử dụng thêm an thần trong mổ là 15,7%, thất bại phải thay đổi phương pháp vô cảm là 5,5%. Có 2 trường hợp ngộ độc thuốc tê đều đáp ứng tốt với phác đồ cấp cứu, không ghi nhận di chứng. Kết luận: Gây tê thần kinh ngoại biên với hướng dẫn máy kích thích thần kinh là phương pháp vô cảm hiệu quả, tỷ lệ thành công cao, dễ thực hiện và an toàn trong phẫu thuật chi trên và chi dưới.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả gây tê thần kinh ngoại biên trong phẫu thuật chi trên và chi dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 214
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GÂY TÊ THẦN KINH NGOẠI BIÊN
TRONG PHẪU THUẬT CHI TRÊN VÀ CHI DƯỚI
Nguyễn Thị Thanh*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả gây tê thần kinh ngoại biên với máy kích thích thần kinh trong
phẫu thuật chi trên và chi dưới từ tháng 01/2010 đến tháng 10/2011 tại khoa GMHS, bệnh viện Nhân Dân Gia
Định.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu
Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân phẫu thuật chi trên và chi dưới được gây tê bằng Bupivacaine 0,5%
dưới hướng dẫn của máy kích thích thần kinh (gây tê gian cơ bậc thang, trên xương đòn, dưới xương đòn, vùng
nách, thần kinh đùi, thần kinh tọa và kết hợp thần kinh tọa – đùi). Ghi nhận các biến số nghiên cứu liên quan
đến phẫu thuật, phương pháp vô cảm, tỷ lệ thành công, mức độ khó của thủ thuật, tính an toàn và tác dụng phụ.
Kết quả: Có 128 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu trong thời gian từ tháng 01/2011 đến tháng 10/2011.
Thời gian thực hiện thủ thuật trung bình là 9,7 ± 4,6 phút. Số lần đâm kim trung bình là 1,6 ± 0,6 lần. Tỷ lệ
thành công trong vô cảm phẫu thuật là 94,5%, tỷ lệ giảm đau hậu phẫu tốt là 96,8%. Tỷ lệ sử dụng thêm an
thần trong mổ là 15,7%, thất bại phải thay đổi phương pháp vô cảm là 5,5%. Có 2 trường hợp ngộ độc thuốc tê
đều đáp ứng tốt với phác đồ cấp cứu, không ghi nhận di chứng.
Kết luận: Gây tê thần kinh ngoại biên với hướng dẫn máy kích thích thần kinh là phương pháp vô cảm hiệu
quả, tỷ lệ thành công cao, dễ thực hiện và an toàn trong phẫu thuật chi trên và chi dưới.
Từ khóa: gây tê thần kinh ngoại biên, kích thích thần kinh, phẫu thuật chi trên và chi dưới
ABTRACT
EVALUATION OF PERIPHERAL NERVE ANESTHESIA
FOR UPPER AND LOWER LIMBS SURGERY
Nguyen Thi Thanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 214 ‐ 218
Objective: Evaluate the efficacy of peripheral nerve anesthesia with nerve stimulator for the patient
undergoing upper and lower limbs surgery.
Type of study: Clinical descriptive and prospective cases series.
Methods: Peripheral nerve anesthesia with bupivacaine 0.5% and nerve stimulator was performed for the
patients undergoing upper and lower limbs surgery (interscalene, supraclavicular, infraclavicular, axillary,
femoral, sciatic and sciatic – femoral blocks). We analyzed the variables of surgery, successful rate, difficulty,
safety and complications of peripheral nerve blockade.
Results: 128 patients had peripheral nerve anesthesia from January 2011 to October 2011. The meaning
time of procedure is 9.7 ± 4.6 minutes. The meaning number of injection is 1.6 ± 0.6 times. The successful rate for
surgical anesthesia is 94.5% and for good post‐operative pain management is 96.8%. Of the patients with a
successful anesthesia, 15.7% needs intraoperative supplementary sedation. The unsuccessful nerve block
requiring anesthesia alternatives is 5.5%. Two patients had manifestations of local anesthetic systemic toxicity
and successfully rescued with resuscitation and lipid emulsion infusion.
* Khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định,
Tác giả liên lạc: TS.BS.Nguyễn Thị Thanh ĐT: 0918578857 Email: nguyenthithanh@pnt.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 215
Conclusion: Peripheral nerve block with nerve stimulator is effective and not difficult anesthesia with high
successful rate and safety for upper and lower limbs surgery.
Key words: peripheral nerve anesthesia, neurostimulator, upper and lower limbs surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các phương pháp gây tê thần kinh ngoại
biên thường dùng trong phẫu thuật chi trên
gồm có gây tê đám rối cánh tay vị trí gian cơ bậc
thang, trên xương đòn, dưới xương đòn và tại
nách; trong phẫu thuật chi dưới gồm gây tê thần
kinh đùi, thần kinh tọa và phối hợp cả hai.
Gây tê thần kinh ngoại biên cho phép vô
cảm chuyên biệt tại vị trí phẫu thuật và làm
giảm sự cần thiết phải gây mê toàn diện. Đây là
phương pháp vô cảm có tính giảm đau tốt, giảm
nhu cầu sử dụng và tác dụng phụ của thuốc
phiện và có thể giảm chi phí(11).
Các nghiên cứu của Liu SS(13) và Martin F(15)
cho thấy gây tê thần kinh ngoại biên giúp giảm
đau và kháng viêm hậu phẫu, giảm tần suất
buồn nôn, giảm thời gian lưu bệnh nhân tại
phòng hồi tỉnh, tăng mức hài lòng và cải thiện
việc phục hồi chức năng cho bệnh nhân. Đây là
phương pháp vô cảm an toàn, ít gặp các biến
chứng nặng và chỉ có 0,4% bệnh nhân có bệnh lý
thần kinh hậu phẫu(23,3). Tại Việt Nam, có nhiều
nghiên cứu về các phương pháp gây tê thần
kinh ngoại biên riêng rẽ. Nghiên cứu của các tác
giả Đoàn Phú Cương (2010)(6) và Vương Văn
Kinh (2010)(22) đánh giá cao hiệu quả của gây tê
đám rối thần kinh cánh tay đường trên xương
đòn trong phẫu thuật chi trên. Tác giả Phạm
Văn Công (2006)(17) chứng minh gây tê thần kinh
đùi có nhiều lợi điểm hơn gây tê tủy sống trong
phẫu thuật xương bánh chè. Khi thực hiện thủ
thuật, máy kích thích thần kinh giúp làm tăng tỷ
lệ thành công, giảm thời tiềm phục, tránh tiêm
vào bên trong dây thần kinh(17).
Vì sự cần thiết của nghiên cứu đánh giá hiệu
quả của gây tê thần kinh ngoại biên dưới hướng
dẫn của máy kích thích thần kinh, chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này với các mục tiêu:
‐ Xác định tỷ lệ thành công trong vô cảm
phẫu thuật và giảm đau sau mổ
‐ Xác định độ khó của thủ thuật
‐ Xác định tỷ lệ tác dụng phụ
Trên các bệnh nhân được gây tê thần kinh
ngoại biên với máy kích thích thần kinh để phẫu
thuật chi trên và chi dưới tại bệnh viện Nhân
Dân Gia Định.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả, báo cáo các
trường hợp bệnh. Đối tượng nghiên cứu là các
bệnh nhân được phẫu thuật chi trên và chi dưới,
thỏa điều kiện gây tê thần kinh ngoại biên và
đồng ý tham gia nghiên cứu. Phác đồ nghiên
cứu được Hội Đồng Khoa Học của bệnh viện
Nhân Dân Gia Định cho phép thực hiện.
Tất cả các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu
sẽ được chuẩn bị trước mổ, an thần với
Midazolam 10 – 20μg/kg nếu không có chống
chỉ định và tiến hành gây tê thần kinh ngoại
biên với kim gây tê Stimuplex có dùng máy kích
thích thần kinh tìm kích thích phù hợp. Cường
độ dòng điện kích thích là 1mA, giảm xuống khi
có kích thích thần kinh phù hợp. Ngưỡng cường
độ dòng điện vẫn còn duy trì kích thích để cho
phép tiêm thuốc tê là 0,3 – 0,5mA. Thuốc tê sử
dụng là Bupivacaine 0,5% với liều lượng tùy loại
phong bế thực hiện:
‐ Gây tê gian cơ bậc thang: 20ml
‐ Gây tê trên đòn: 20 – 30ml
‐ Gây tê dưới đòn: 20 – 30ml
‐ Gây tê nách: 20 ml – 30ml
‐ Gây tê thần kinh đùi: 20 – 30ml
‐ Gây tê thần kinh tọa: 20 – 35ml
Bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật, theo
dõi tại phòng mổ và phòng hồi tỉnh. Các biến số
nghiên cứu ghi nhận bao gồm tuổi, giới, bệnh lý
phẫu thuật, thời gian và loại phẫu thuật, loại gây
tê, số lần đâm kim, thời gian thực hiện gây tê,
chỉ số cường độ dòng điện kích thích tối thiểu,
tác dụng vô cảm và giảm đau (thang điểm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 216
Visual Analogue Scale – VAS) cũng như tác
dụng phụ của gây tê.
Biến số định tính sẽ được trình bày dưới
dạng tỷ lệ %. Biến số định lượng sẽ được trình
bày dưới dạng số trung bình và độ lệch chuẩn.
Số liệu thu thập được xử lý bằng máy vi tính với
phần mềm SPSS 15.0 trên hệ điều hành
Window. Các số trung bình sẽ được so sánh
bằng phép kiểm t (t‐Test), các tỷ lệ sẽ được so
sánh bằng phép kiểm bình phương (chi‐
square).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu, có tất cả 128
bệnh nhân được phẫu thuật chi trên và chi dưới
với gây tê thần kinh ngoại biên.
Bảng 1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Biến số Kết quả
Tuổi trung bình (năm) 40 ± 18,1
Chiều cao (cm) 158,8 ± 7,7
Cân nặng (kg) 55,7 ± 7,7
Giới tính Nam: 89 (69,5%) – Nữ 39 (30,5%)
Bảng 2. Đặc điểm phẫu thuật
Biến số Kết quả
Vị trí phẫu thuật Chi trên: 70 (54,7%)
Chi dưới: 58 (45,3%)
PT cấp cứu –
chương trình
Cấp cứu: 76 (59,4%)
Chương trình: 52 (40,6%)
Loại phẫu thuật
Chấn thương chỉnh hình: 126 (98,4%)
Mạch máu (cầu nối động mạch tay): 2
(1,6%)
Thời gian phẫu thuật trung bình là 54,8 ±
33,8 phút.
Bảng 3. Đặc điểm phương pháp vô cảm.
Loại gây tê Số lượng Thời gian thủ thuật (phút)
Số lần đâm
kim
Gian cơ bậc
thang 7 (5,5%) 8,3 ± 3,7 1,3
Trên xương đòn 39 (30,5%) 8,7 ± 3,5 1,6
Dưới xương
đòn 5 (3,9%) 9,6 ± 3,6 1,2
Nách 19 (14,8%) 8,9 ± 4,2 1,7
Thần kinh đùi 17 (13,3%) 8,9 ± 4,3 1,5
Thần kinh tọa 7 (5,5%) 6,1 ± 2,0 1,1
Thần kinh đùi +
tọa 34 (26,5%) 12,8 ± 5,2 1,4
TRUNG BÌNH 9,7 ± 4,6 1,6 ± 0,6
Cường độ dòng điện trung bình của máy
kích thích thần kinh khi tiến hành gây tê là 0,44 ±
0,09mA. Không ghi nhận trường hợp dị cảm
đau chói khi tiêm thuốc tê.
Thời gian tiềm phục trung bình là 15,1±3,4
phút.
Thời gian từ khi bắt đầu tiến hành thủ thuật
đến khi phẫu thuật là 24,9 ± 5,9 phút.
Lượng thuốc tê trung bình sử dụng cho mỗi
vị trí gây tê là 26,6 ± 5,1mL.
Tỷ lệ thành công chung của gây tê thần kinh
ngoại biên là 121/128 = 94,5%.
Tỷ lệ thành công của gây tê thần kinh ngoại
biên chi trên 64/70 = 91,4%.
Tỷ lệ thành công của gây tê thần kinh ngoại
biên chi dưới 57/58 = 98,3%.
Tỷ lệ sử dụng an thần sâu cho những bệnh
nhân cảm thấy khó chịu và đau trong mổ (đối
với các trường hợp gây tê thành công)
19/121=15,7%.
Thuốc sử dụng thêm trong mổ là Propofol
hoặc kết hợp Propofol và Ketamine.
Tác dụng giảm đau sau mổ
Biểu đồ 1. Tác dụng giảm đau sau mổ
Tỷ lệ gây tê thất bại là 7/128 = 5,5%. Phương
pháp vô cảm thay thế là gây mê toàn diện qua
nội khí quản (6 trường hợp) và gây tê tủy sống
(1 trường hợp).
Không ghi nhận biến động về hô hấp và
huyết động sau khi gây tê.
Tai biến ngộ độc thuốc tê gặp trong 2 trường
hợp, biểu hiện co giật, đều là thủ thuật gây tê chi
trên (dưới đòn và nách). Bệnh nhân được xử trí
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 217
ngay với phác đồ ngộ độc thuốc tê, diễn biến
lâm sàng ổn định, không có di chứng và sử
dụng phương pháp vô cảm để phẫu thuật là gây
mê toàn diện qua nội khí quản.
BÀN LUẬN
Gây tê thần kinh ngoại biên có dùng máy
kích thích thần kinh có tỷ lệ tương đương đối
với phẫu thuật chi trên và chi dưới, bước đầu
được áp dụng rộng rãi trong thực hành lâm
sàng. Phẫu thuật cấp cứu (59,4%) nhiều hơn
chương trình (40,6%) và đều là chuyên khoa
chấn thương chỉnh hình. Gây tê thần kinh ngoại
biên trong phẫu thuật cấp cứu giúp vô cảm
trong phẫu thuật và điều trị đau ngay cho bệnh
nhân(9). Tỷ lệ phẫu thuật chấn thương chỉnh hình
chiếm đa số. Chúng tôi bước đầu sử dụng gây tê
vùng nách trong phẫu thuật tạo cầu nối động
tĩnh mạch tay sử dụng trong chạy thận nhân tạo
(2 trường hợp, 1,6%). Gây tê thần kinh ngoại
biên có thể giúp dãn mạch máu, phẫu thuật viên
dễ tiếp cận mạch máu hơn, dòng máu qua cầu
nối cũng tốt hơn, giảm thời gian chờ đợi sử
dụng cầu nối(14).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, gây tê
trên xương đòn chiếm tỷ lệ cao nhất đối với
chi trên và kết hợp gây tê thần kinh đùi và tọa
chiếm tỷ lệ cao nhất đối với chi dưới. Gây tê
trên xương đòn có mức độ vô cảm tốt, phong
bế được các thân thần kinh xuất phát từ C8 và
T1(8,21), có thể là yếu tố khiến đây là phương
pháp vô cảm phổ biến nhất. Tương tự, gây tê
thần kinh đùi kết hợp với thần kinh tọa giúp
phong bế gần toàn bộ chi dưới. Thần kinh đùi
có vị trí giải phẫu nông, dễ xác định trong khi
thần kinh tọa là thần kinh lớn nhất cơ thể, mốc
giải phẫu được nghiên cứu kỹ(16). Các yếu tố
này giúp phương pháp vô cảm kết hợp trên
chiếm tỷ lệ cao nhất đối với chi dưới.
Cường độ dòng điện trung bình sử dụng
để xác định đầu kim gần dây thần kinh là
0,44mA. Trong thực hành lâm sàng, ngưỡng
kích thích từ 0,2 đến 0,5mA được đánh giá là
an toàn, giúp tránh tiêm thuốc trực tiếp vào
trong dây thần kinh gây độc trực tiếp cũng
như tránh tiêm thuốc quá xa dây thần kinh
khiến vô cảm không đủ(14).
Bảng 4. So sánh thời gian thực hiện thủ thuật với các
nghiên cứu khác
Loại gây tê Nghiên cứu của chúng tôi
Nghiên cứu
khác
Gian cơ bậc thang 8,3 phút 8,4 phút[12]
Trên xương đòn 8,7 phút 5,7 phút[15]
Dưới xương đòn 9,6 phút 10,4 phút[16]
Vùng nách 8,9 phút 6 phút[17]
Thần kinh đùi 8,9 phút 3,5 phút[18]
Kết hợp thần kinh đùi và
thần kinh tọa 12,8 phút 7,5 phút[19]
Thời gian thực hiện thủ thuật không khác
biệt nhiều so với các tác giả khác. Một số nghiên
cứu có thời gian thực hiện thủ thuật ngắn hơn có
thể giải thích do việc áp dụng cả hai phương
pháp xác định thần kinh là máy kích thích thần
kinh và siêu âm cũng như cường độ kích thích
cao hơn.
Số lần đâm kim trung bình của chúng tôi là
1,6 ± ,6 lần, có thể so sánh với tác giả Beach JL(2)
là 1,3 ± 0,7 lần (sử dụng cả siêu âm và máy kích
thích thần kinh). Điều này chứng tỏ nắm rõ mốc
giải phẫu và máy kích thích thần kinh khiến thủ
thuật dễ thực hiện hơn,
Tỷ lệ thành công của gây tê thần kinh ngoại
biên trong nghiên cứu của Fanelli G(7) là 92,8%,
tương đương với kết quả của chúng tôi 94,5%.
Ngoài ra, tỷ lệ giảm đau sau mổ tốt là 96,8%, lớn
hơn tỷ lệ vô cảm thành công là 94,5%, chứng tỏ
dù không vô cảm thành công, thuốc tê cũng
mang lại tác dụng giảm đau tốt sau mổ. Tác
dụng giảm đau tốt của gây tê cũng đã được Liu
SS(13) chứng minh với tỷ lệ là 93,8% so với 57,7%
của gây mê toàn diện.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, gây tê
thần kinh ngoại biên an toàn trên hô hấp và
huyết động của bệnh nhân. Hai trường hợp có
biểu hiện ngộ độc thần kinh đều được kiểm
soát tốt và ổn định với gây mê toàn diện và sử
dụng dung dịch Intralipid truyền tĩnh mạch.
Liều lượng gây độc của Bupivacaine rất khó
xác định qua các nghiên cứu(20). Cả hai trường
hợp trên đều có liều lượng thuốc tê sử dụng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 218
thấp hơn ngưỡng gây độc. Tai biến có thể giải
thích do thuốc tê thấm vào mạch máu bị tổn
thương trong quá trình đi kim. Phác đồ xử trí
với Intralipid đã được khuyến cáo qua nghiên
cứu(10) và chứng tỏ có hiệu quả trong cả hai
trường hợp này.
KẾT LUẬN
Gây tê thần kinh ngoại biên dưới hướng dẫn
của máy kích thích thần kinh là phương pháp vô
cảm hiệu quả, dễ thực hiện, có tác dụng giảm
đau tốt và tương đối an toàn cho bệnh nhân
phẫu thuật chi trên và chi dưới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Anns JP, Chen EW, Nirkavan N et al (2011). “A comparison of
Sartorius versus quadriceps stimulation for femoral nerve
block: A prospective randomized double‐blind controlled trial”.
Anesth Analg, 112, pp.725‐731.
2. Beach ML, Sites BD and Gallagher JD (2006). “Use of a nerve
stimulator does not improve the efficacy of ultrasound‐guided
supraclavicular nerve blocks”. J Clin Anesth, 18, pp.580‐584.
3. Bull R, McCartney CJL, Chan VWS et al (2007). “Neurological
complications after regional anesthesia: comtemporary
estimates of risk”. Anesth Analg. 104, pp.965‐974.
4. Casati A, Cappelleri G, Fanelli G et el (2000). “Regional
anaesthesia for outpatient arthroscopy: a randomized clinical
comparison of two different anaesthetic techniques”. Acta
Anaesthesiol Scand, 44, pp.543‐537.
5. De Andres J and Sala‐Blanch (2001). “Peripheral nerve
stimulation in the practice of brachial plexus anesthesia: a
review”. Reg Anesth Pain Med; 26, 478–483.
6. Đoàn Phú Cườnng, Lê Hải Trung, Đoàn Như Hoa (2010). “Sử
dụng máy dò vị trí thần kinh trong gây tê đám rối cánh tay
đường trên đòn để phẫu thuật bỏng và di chứng bỏng chi trên”.
Y học thực hành. Cần Thơ, số 744, tr.33–35.
7. Fanelli G, Casati A, Garancini P and Torri G (1999). “Nerve
stimulation and multiple injection technique for upper and
lower limb blockade: failure rate, patient acceptance and
neurologic complications”. Anesth Analg, 88, pp.847‐852.
8. Franco CD and Vieira ZEG (2000). “1001 subclavican
perivascular brachial plexus blocks: success with a nerve
stimulator”. Reg Anesth Pain Med, 25(1), pp.41‐46.
9. Fuzier R, Fourcade O, Fuzier V et al (2006). “The feasibility and
efficacy of short axillary catheters for emergency upper limb
surgery: A descriptive series of 120 cases”. Anesth Analg, 102,
pp.610‐614.
10. Jeng CL, Torrillo TM and Rosenblatt MA (2010).
“Complications of peripheral nerve blocks”. Br J Anaesth,
105(S1), pp.i97‐107.
11. Klein SM, Evans H, Nielsen KC et al (2005). “Peripheral nerve
block techniques for ambulatory surgery”. Anesth Analg. 101,
pp.1663‐1676.
12. Koscielniak ZJ, Frederiksen BS, Rasmussen H and Hesselbjerg L
(2009). “A comparison of unltrasound‐guided supraclavicular
and infraclavicular blocks for upper extremity surgery”. Acta
Anesthesiol Scand, 53, pp.620‐626.
13. Liu SS, Strodbeck WM, Richman JM, Wu CL (2005). “A
comparison of regional versus general anesthesia for
ambulatory anesthesia: A meta‐analysis of randomized
controlled trials”. Anesth Analg. 101, pp.1634‐1642.
14. Malinzak EB and Gan TJ (2009). “Regional anesthesia for
vascular access surgery”. Anesth Analg, 109, pp.976‐980.
15. Martin F, Martinez V, Mazoit JX et al (2008). “Antiinflammatory
effect of peripheral nerve blocks after knee surgery: clinical and
biologic evaluation”. Anesthesiology. 109 (3), pp.484‐490.
16. Murray JM, Derbyshire S and Shields MO (2010). “Lower limb
blocks”. Anaesthesia, 65(1), pp.57‐66.
17. Phạm Văn Công, Nguyễn Văn Chừng (2006). “Gây tê thần kinh
đùi và thần kinh mác chung trong phẫu thuật cấp cứu gãy
xương bánh chè”. Y học Tp. Hồ Chí Minh. Tập 10 (1), tr.58‐62.
18. Salazar CH and Espinosa W (1999). “Infraclavicular brachial
plexus block: variation in approche and results in 360 cases”.
Reg Anesth Pain Med. 24(5), pp.411‐416.
19. Sia S, Bartoli M, Lepri A et al (2000). “Multiple‐injection axillary
brachial plexus block: a comparison of two methods of nerve
localization – Nerve stimulation versus paresthesia”. Anesth
Analg. 91, pp.647‐651.
20. Stewart J, Kellett N and Castro D (2003). “The central nervous
system and cardiovascular effects of levobupivacaine and
ropivacaine in healthy volunteers”. Anesth Analg, 97, pp.412‐
416.
21. Tran QHD, Clemente A, Doan J and Finlayson RJ (2007).
“Brachial plexus blocks: A review of approaches and
techniques”. Can J Anesth, 54(8), pp.662‐674.
22. Vươg Văn Kinh (2010). “Nghiên cứu gây tê đám rối thần kinh
cánh tay trên xương đòn kết hợp với phong bế thần kinh cơ bì
bằng Lidocain trong phẫu thuật chi trên tại bệnh viện 7 Quân
khu 3 năm 2009 – 2010”. Y học thực hành. Cần Thơ, số 744,
tr.179‐180.
23. Wiegel M, Gottschadt U, Hennebach R et al (2007).
“Complications and adverse effects associ