Đánh giá hiệu quảthủthuật thông lệđạo kết hợp nội soi mũi trong điều trịtắc lệđạo bẩm sinh

Mục đích: Đánh giá hiệu quả của thủ thuật thông lệ đạo có kết hợp nội soi mũi trong điều trị bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không nhóm chứng, tiến hành tại bệnh viện Nhi Đồng 2 thành phố Hồ Chí Minh từ 8/2011 – 8/2012. 31 mắt của 23 bệnh nhi bị tắc lệ đạo bẩm sinh từ trên 6 tháng tuổi được điều trị bằng phương pháp thông lệ đạo có kết hợp nội soi mũi dưới gây mê toàn thân. Theo dõi và đánh giá kết quả sau 6 tháng. Kết quả: 23 bệnh nhi (12 nam và 11 nữ) từ 6 tháng đến 60 tháng tuổi. 8 trẻ bị tắc đạo bẩm sinh hai mắt. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 16,6 ± 13,5 tháng tuổi. 21/31 mắt đã tiến hành thông lệ đạo trước đó. Tỷ lệ thành công chung của thông lệ đạo kết hợp nội soi mũi là 90,3% (28/31 mắt) tại thời điểm 6 tháng sau thủ thuật. Tỷ lệ thành công phụ thuộc vào nguyên nhân tắc nghẽn và tỷ lệ nghịch với số lần thông lệ đạo trước đó. 4/31 mắt (12,9%) xuất hiện biến chứng chảy máu trong lúc tiến hành thủ thuật. 5/31 mắt (16,1%) xảy ra tình trạng thông sai đường. Tất cả các trường hợp thông sai đường đều được nội soi mũi phát hiện và hướng dẫn thông đúng đường. Kết luận: Phương pháp thông lệ đạo có kết hợp nội soi mũi cho tỷ lệ thành công cao, giúp phát hiện nguyên nhân gây tắc nghẽn và hạn chế biến chứng thông sai đường.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 143 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quảthủthuật thông lệđạo kết hợp nội soi mũi trong điều trịtắc lệđạo bẩm sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 213 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THỦ THUẬT THÔNG LỆ ĐẠO KẾT HỢP NỘI SOI MŨI TRONG ĐIỀU TRỊ TẮC LỆ ĐẠO BẨM SINH Nguyễn Thành Danh*, Nguyễn Công Kiệt* TÓM TẮT Mục đích: Đánh giá hiệu quả của thủ thuật thông lệ đạo có kết hợp nội soi mũi trong điều trị bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không nhóm chứng, tiến hành tại bệnh viện Nhi Đồng 2 thành phố Hồ Chí Minh từ 8/2011 – 8/2012. 31 mắt của 23 bệnh nhi bị tắc lệ đạo bẩm sinh từ trên 6 tháng tuổi được điều trị bằng phương pháp thông lệ đạo có kết hợp nội soi mũi dưới gây mê toàn thân. Theo dõi và đánh giá kết quả sau 6 tháng. Kết quả: 23 bệnh nhi (12 nam và 11 nữ) từ 6 tháng đến 60 tháng tuổi. 8 trẻ bị tắc đạo bẩm sinh hai mắt. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 16,6 ± 13,5 tháng tuổi. 21/31 mắt đã tiến hành thông lệ đạo trước đó. Tỷ lệ thành công chung của thông lệ đạo kết hợp nội soi mũi là 90,3% (28/31 mắt) tại thời điểm 6 tháng sau thủ thuật. Tỷ lệ thành công phụ thuộc vào nguyên nhân tắc nghẽn và tỷ lệ nghịch với số lần thông lệ đạo trước đó. 4/31 mắt (12,9%) xuất hiện biến chứng chảy máu trong lúc tiến hành thủ thuật. 5/31 mắt (16,1%) xảy ra tình trạng thông sai đường. Tất cả các trường hợp thông sai đường đều được nội soi mũi phát hiện và hướng dẫn thông đúng đường. Kết luận: Phương pháp thông lệ đạo có kết hợp nội soi mũi cho tỷ lệ thành công cao, giúp phát hiện nguyên nhân gây tắc nghẽn và hạn chế biến chứng thông sai đường. Từ khóa: Tắc lệ đạo bẩm sinh, thông lệ đạo, nội soi mũi. ABSTRACT RESULTS OF ENDOSCOPIC ASSISTED PROBING FOR CONGENITAL NASOLACRIMAL DUCT OBSTRUCTION Nguyen Thanh Danh, Nguyen Cong Kiet * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 213 - 220 Purpose: to evaluate the results of lacrimal probing with the use of nasal endoscopy for congenital nasolacrimal duct obstruction. Subject and Methods: In a prospective study, at the Children Hospital No.2, HCM city, from August - 2011 to August - 2012. 31 eyes of 23 children with congenital nasolacrimal duct obstruction (CNLDO) underwent probing of the lacrimal duct under general anaesthetic in conjunction with nasal endoscopy. Patients followed up for 6 months. Results: A total of 23 children were included in the study and 31 lacrimal drainage system underwent endoscopic probing. The age range was 6-60months (mean 16.6 ± 13.5 months). 21/31 eyes had previous probing. The overall success rate was 90.3% (28/31 eyes). The outcome depended on the level of the obstruction and previous probing. There were no sirious complications notes although 4/31 eyes (12.9%) nasal bleeding and 5/31 eyes (16.1%) had false passage. Conclusions: Nasolacrimal duct probing under direct nasal endoscopic visualization can be considered as  Bộ Môn Mắt, Đại Học Y Dược Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thành Danh ĐT: 0934.689.986 Email: dr.danh@yahoo.com.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 214 the standard treatment of CNLDO as it minimizes intranasal trauma and leads to a better surgical outcome. Key words: Congenital nasolacrimal duct obstruction (CNLDO), probing, nasal endoscopy. ĐẶT VẤN ĐỀ Tắc lệ đạo bẩm sinh là bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhũ nhi, với tần suất thay đổi từ 5% đến 20%. Cơ chế bệnh sinh do tắc nghẽn trong hệ thống thoát lưu nước mắt, trong đó sự tồn tại một màng mỏng tại vị trí van Hasner bởi quá trình ống hóa không hoàn toàn chiếm gần 80% các trường hợp. Bệnh thường biểu hiện sớm trong những tuần đầu sau sinh với triệu chứng chảy nước mắt kèm tăng tiết chất nhầy hoặc ghèn gây rất nhiều lo lắng cho thân nhân bệnh nhi. Các trường hợp không tự khỏi sau 6 – 12 tháng sẽ được can thiệp bằng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó thông lệ đạo là biện pháp phổ biến nhất được hầu hết các bác sĩ nhãn nhi trên thế giới đề nghị. Phương pháp thông lệ đạo với ưu điểm dễ thực hiện, cho tỷ lệ thành công cao. Tuy nhiên, nhiều tác giả vẫn cho rằng đây là thủ thuật “mù” do phụ thuộc nhiều vào kỹ thuật, kinh nghiệm của người thực hiện và thiếu tính khách quan. Những trường hợp không thành công ở lần thông lệ đạo đầu tiên thường được đề nghị thông lại lần thứ hai, thậm chí lần thứ ba trước khi chuyển sang áp dụng một biện pháp can thiệp khác mà vẫn không xác định được nguyên nhân gây thất bại. Đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, với ưu điểm về cung cấp hình ảnh, nội soi đã khắc phục được các hạn chế nêu trên của thủ thuật thông lệ đạo truyền thống. Từ năm 1996, nghiên cứu về vai trò của nội soi trong thủ thuật thông lệ đạo bắt đầu được thực hiện tại nhiều nơi trên thế giới. Qua đó, các tác giả đã khẳng định nội soi mũi sẽ giúp cho việc tiến hành thủ thuật thông lệ đạo trở nên dễ dàng, thuận tiện và an toàn hơn. Bên cạnh đó, nội soi mũi còn giúp chẩn đoán, xử lý triệt để các nguyên nhân bất thường ở mũi gây tắc ống lệ mũi. Chính vì thế sẽ làm tăng tỷ lệ thành công của thủ thuật thông lệ đạo đến 87% - 100%. Quan trọng hơn, nội soi còn thể hiện được tính linh hoạt trong điều trị khi giúp phẫu thuật viên có cơ hội lựa chọn nhiều biện pháp điều trị thích hợp trong cùng một lần can thiệp. Qua đó, sẽ giúp bệnh nhi tránh được nguy cơ gây mê nhiều lần(1,2,5,7,9,10). Với những ưu điểm vượt trội, nhiều tác giả nhận định việc kết hợp nội soi mũi với thủ thuật thông lệ đạo sẽ là xu hướng mới trong điều trị bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh trong thế kỷ XXI(2,5). Tại Việt Nam, nội soi mũi đã được áp dụng kết hợp với thông lệ đạo trong điều trị bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 10/2010, bước đầu mang lại hiệu quả khả quan. Thế nhưng cho đến nay, ở nước ta cũng như tại các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á hiện vẫn chưa có một báo cáo nào về hiệu quả của phương pháp này. Với tất cả những nhận định trên, đề tài “Đánh giá hiệu quả thủ thuật thông lệ đạo kết hợp nội soi mũi trong điều trị tắc lệ đạo bẩm sinh” được chọn nghiên cứu nhằm mục đích: Mô tả đặc điểm lâm sàng bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh.. Xác định tỷ lệ thành công của thủ thuật thông lệ đạo kết hợp nội soi mũi trong điều trị tắc lệ đạo bẩm sinh. Nghiên cứu này sẽ góp phần làm căn cứ khoa học cho việc triển khai rộng rãi phương pháp thông lệ đạo kết hợp nội soi mũi tại các cơ sở y tế chuyên khoa trong cả nước. Qua đó, giúp những bệnh nhi bị tắc lệ đạo bẩm sinh có cơ hội được tiếp nhận một phương pháp điều trị mới, an toàn, hiệu quả và triệt để hơn. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả những trẻ trên 6 tháng tuổi, được chẩn đoán và điều trị tắc lệ đạo bẩm sinh tại bệnh viện Nhi Đồng 2 thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 8/2011 đến tháng 8/2012. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 215 Loại khỏi nghiên cứu những trường hợp: tắc lệ quản, dị tật bẩm sinh vùng sọ mặt, bệnh lý tại mắt, bệnh lý toàn thân đi kèm không cho phép tiến hành gây mê. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Can thiệp lâm sàng, không nhóm chứng. Quy trình nghiên cứu Chẩn đoán tắc lệ đạo bẩm sinh: dựa trên bệnh sử (chảy nước mắt, ghèn xuất hiện sớm sau sinh), dấu chứng lâm sàng (dấu hiệu trào ngược nước mắt tại vị trí lỗ lệ khi ấn vùng đáy túi lệ) và nghiệm pháp mất thuốc nhuộm cho kết quả bất thường. Làm hồ sơ nhập viện, khám tiền mê, xét nghiệm trước mổ đối với những bệnh nhi tham gia nghiên cứu. Nhỏ thuốc làm co niêm mạc mũi. Dùng nội soi quan sát điểm lệ và tình trạng hốc mũi, đặc biệt vùng cuống mũi dưới, ngách mũi dưới. Hẹp điểm lệ: tiến hành nong điểm lệ. Bất thường xương chính mũi: loại khỏi nghiên cứu. Bơm rửa lệ đạo xác định vị trí tắc nghẽn. Loại khỏi nghiên cứu những trường hợp tắc lệ quản. Tiến hành thông lệ đạo bằng bộ que thông Bowman, quan sát trên màn hình nội soi tình trạng bít tắc tại lỗ đổ của ống lệ mũi tại van Hasner. Tồn tại màng mỏng: di chuyển que thông qua lại. Tồn tại màng dày: dùng dao nội soi cắt, mổ rộng lỗ đổ. Bất thường vị trí cuối mũi dưới: bẻ cuống mũi. Phát hiện và xử trí biến chứng thông sai đường. Bơm rửa lệ đạo, kiểm tra và đánh giá sự thông suốt của hệ thống lệ đạo. Tái khám lúc 1 tuần, 1 tháng và 6 tháng sau thủ thuật. Kết quả được xem là thành công khi bệnh nhi không còn triệu chứng cơ năng, không có dấu chứng lâm sàng và thử nghiệm mất thuốc nhuộm cho kết quả bình thường. Thu thập và xử lý số liệu Dữ liệu được ghi nhận bằng bảng thu thập số liệu, nhập dữ liệu thô bằng Microsoft Exel 2010, xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0. Kiểm định thống kê bằng các phép kiểm t, phép kiểm chi bình phương. Đánh giá mối tương quan qua hệ số tương quan Spearman’s R. Mức ý nghĩa P – value ≤ α = 0,05. KẾT QUẢ Nghiên cứu được tiến hành trên 23 bệnh nhi với 12 bé nam (52%) và 11 bé nữ (48%). 11 trẻ (48%) cư ngụ tại thành phố Hồ Chí Minh, 12 trẻ (52%) cư ngụ tại các nơi khác. Có 8 bệnh nhi bị tắc lệ đạo bẩm sinh hai mắt. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 16,6 ± 13,5 tháng. Đặc điểm triệu chứng cơ năng Bảng 1. Bảng phân phối tần suất triệu chứng cơ năng. TẦN SUẤT THỜI ĐIỂM MỨC ĐỘ XUẤT ĐỘ TRIỆU CHỨNG Trước 1 tháng Sau 1 tháng Nhẹ Nặng Thường xuyên Từng lúc Chảy nước mắt 31 (100%) 25 (80,6%) 6 (19,4%) 3 (9,7%) 28 (90,3%) 21 (67,7%) 10 (32,3%) Tăng tiết ghèn 23 (74,2%) 5 (16,1%) 18 (58,1%) 1 (3,2%) 22 (71,0%) 4 (12,9%) 19 (61,3%) Khi thăm khám lâm sàng, 27/31 mắt (87,1%) có dấu hiệu trào ngược nước mắt qua điểm lệ khi day ấn vùng túi lệ và 26/31 mắt (83,9%) có nghiệm pháp mất thuốc nhuộm cho kết quả bất thường. Trước một tình trạng tắc lệ đạo bẩm sinh, tất cả các trường hợp đã có sử dụng nước muối sinh lý nhỏ mắt, 87,1% sử dụng thuốc kháng sinh nhỏ mắt, 42% tự nhỏ sữa mẹ vào mắt. Trong khi đó, chỉ có 35,5% mắt bị tắc lệ đạo được day ấn. Đáng lưu ý trong nghiên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 216 cứu này, có đến 67,7% các trường hợp đã thất bại với thông lệ đạo trước đây. Trong đó có 29% thông 1 lần, 29% thông 2 lần và 9,7% đã thông lập lại trên 2 lần. Tỷ lệ thành công chung 29/31 mắt 93,5% 27/31 mắt 87,1% 27/31 mắt 87,1% 28/31 mắt 90,3% 50% 60% 70% 80% 90% 100% ngay sau thông sau 1 tuần sau 1 tháng sau 6 tháng Biều đồ 1. Tỷ lệ thành công chung Tỷ lệ thành công phân bố theo nhóm tuổi Tỷ lệ thành công giảm dần theo nhóm tuổi: thành công 95,0% đối với nhóm từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; 83,3% đối với nhóm từ 12 tháng đến dưới 24 tháng; 80,0% đối với nhóm từ trên 24 tháng. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,12). 50% 70% 90% 110% 6-12 tháng 12-24 tháng Trên 24 tháng 19 5 4 1 1 1 Thành công Thất bại Biểu đồ 2. Tỷ lệ thành công phân bố theo nhóm tuổi. Tỷ lệ thành công phân bố theo số lần thông lệ đạo trước đây Tỷ lệ thành công tỉ lệ nghịch với số lần thông lệ đạo trước đó. Thành công 100% ở nhóm can thiệp dưới 2 lần; 77,8% ở nhóm can thiệp 2 lần; 66,7% ở nhóm can thiệp trên 2 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,03). Có mối tương quan nghịch giữa tỷ lệ thành công và số lần can thiệp thông lệ đạo trước đó, mức độ tương quan thấp (R = - 0,38). 50% 60% 70% 80% 90% 100% chưa thông 1 lần 2 lần trên 2 lần 10/10 mắt (100%) 9/9 mắt (100%) 7/9 mắt (77.8%) 2/3 mắt (66.7%) Biểu đồ 3. Tỷ lệ thành công phân bố theo số lần thông lệ đạo trước đó. Tỷ lệ thành công phân bố theo nguyên nhân 50% 60% 70% 80% 90% 100% 2/2 mắt (100%) 20/22 mắt (90.9%) 4/4 mắt (100%) Biểu đồ 4. Tỷ lệ thành công phân bố theo nguyên nhân. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 217 Thông lệ đạo kết hợp nội soi mũi đạt hiệu quả 100% đối với các trường hợp hẹp điểm lệ và bất thường cuống mũi dưới; 90,9% đối với tắc ống lệ mũi; 66,7% đối với các trường hợp chảy nước mắt chức năng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,04). Biến chứng Biến chứng chỉ xảy ra trong lúc tiến hành thủ thuật, chủ yếu là thông sai đường 16,1% (5/31 mắt) và chảy máu 12,9% (4/31 mắt). Tất cả những biến chứng đều được xử trí tốt và không để lại di chứng cho bệnh nhân. BÀN LUẬN Tuổi Tuổi trung bình trong nghiên cứu này là 16,6 tháng. Đối chiếu với các nghiên cứu khác trên thế giới, nhận thấy tuổi trung bình của nghiên cứu này thấp hơn các nghiên cứu tiến hành tại châu Âu của tác giả Mac Ewen C.J.(7) (34 tháng tuổi), tác giả Wallace E.J. 29 tháng tuổi(10), tác giả Kouri A.S. 32,1 tháng tuổi(5), tác giả Cakmak S.S. 33,9 tháng tuổi(1) nhưng cao hơn nghiên cứu tại châu Á của tác giả Ossama M.H. 14,1 tháng tuổi(9). Sự khác nhau này xuất phát từ tiêu chuẩn chọn mẫu, qua đó gián tiếp thể hiện hai quan điểm điều trị khác nhau ở các châu lục. Cụ thể các tác giả tại châu Âu chọn đối tượng nghiên cứu là những trẻ bị tắc lệ đạo bẩm sinh trên 12 tháng tuổi trong khi tác giả tại châu Á chọn nhóm đối tượng trên 4 tháng tuổi. Điều này minh chứng rằng cho đến nay thời điểm thông lệ đạo vẫn còn là một đề tài gây tranh luận. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn thời điểm can thiệp sau 6 tháng tuổi vừa nhằm mục đích chờ đợi sự tự mở thông của hệ thống lệ đạo vừa nhằm làm hạn chế tình trạng viêm kết mạc và sử dụng thuốc kháng sinh kéo dài gây ảnh hưởng đến mắt của trẻ. Triệu chứng cơ năng Triệu chứng chảy nước mắt hiện diện trong tất cả các trường hợp, thường xuất hiện liên tục và sớm ngay trong tháng đầu sau sinh. Trong khi đó, triệu chứng chảy ghèn hiện diện trong gần ¾ các trường hợp với tính chất không liên tục và thường xuất hiện từ tháng thứ 2 sau sinh. Các triẹu chứng trên là phù hợp với các y văn trên thế giới(6). Triệu chứng lâm sàng 87,1% các trường hợp hiện diện dấu hiệu trào ngược nước mắt, chất nhầy – ghèn tại vị trí điểm lệ khi ấn vùng đáy túi lệ. Các trường hợp không xuất hiện dấu chứng lâm sàng được giải thích do 2 nhóm nguyên nhân chính: chảy nước mắt chức năng khi bơm lệ hoạt động không hiệu quả và tắc nghẽn do một màng tại vị trí van Hasner gây hiện tượng “cửa sập”. Các trường hợp trên, nước mắt sẽ thoát xuống hốc mũi dưới áp lực của động tác ấn vùng đáy túi lệ, do đó không xuất hiện dấu hiệu trào ngược. Trong nghiên cứu, sử dụng nghiệm pháp mất thuốc nhuộm để củng cố chẩn đoán bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh. Đây là nghiệm pháp được hầu hết các tác giả trên thế giới sử dụng trong các nghiên cứu về bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh. Điểm mạnh của thử nghiệm nằm ở tính sinh lý; có độ nhạy – độ đặc hiệu cao và không đòi hỏi phương tiện khám chuyên biệt. Kết quả 83,9% trong nghiên cứu thấp hơn so với tác giả MacEwen đã nêu khi tiến hành khảo sát độ nhạy và độ đặc hiệu của nghiệm pháp mất thuốc nhuộm trong chẩn đoán bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh(8). Điều này có thể do sự khác biệt về cỡ mẫu và đối tượng trong 2 nghiên cứu. Tiền căn xử trí Có ít trường hợp được hướng dẫn và thực hiện day ấn vùng túi lệ đúng cách (35,5%) và 2/3 được chỉ định thông lệ đạo sớm trước 6 tháng tuổi. Điều này có thể giải thích bởi nhiều trường hợp tắc lệ đạo bẩm sinh được chẩn đoán bởi các các bác sĩ chuyên khoa Nhi, thậm chí Sản khoa thông qua những lần khám tiêm ngừa đầu tiên. Do đó, việc cung cấp thông tin về bệnh lý cũng như cách chăm sóc, day ấn vùng túi lệ cho thân nhân bệnh nhi chưa thật sự hiệu quả. Ngược lại, do triệu chứng chảy nước mắt, đổ ghèn xuất Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 218 hiện sớm sau sinh đã gây nhiều lo lắng cho thân nhân bệnh nhi, và gây nhầm lẫn sang chẩn đoán viêm kết mạc nên đại đa số đều được sử dụng kháng sinh (87,1%) thậm chí nhỏ sữa mẹ vào mắt theo kinh nghiệm dân gian (42,0%). Tỷ lệ thành công chung Có sự biến thiên theo thời gian do có sự khác nhau trong tiêu chuẩn đánh giá giữa lúc tiến hành thủ thuật và tại các điểm tái khám. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến nguyên nhân từ quá trình phát triển tự nhiên của cơ thể, đặc biệt các cơ vòng mi, cơ Horner giúp cho bơm lệ đạo hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Khi đối chiếu với các nghiên cứu khác, nhận thấy tỷ lệ thành công của chúng tôi (90,3%) gần tương tự với tác giả Wallace 88,5%(10) nhưng cao hơn so với kết quả của các tác giả Gardiner 84,8%(3), tác giả Mac Ewen 85%(7), tác giả Kouri A.S. 84,6%(5). Sự khác biệt này do nghiên cứu của chúng tôi đã loại những trường hợp tắc lệ đạo bẩm sinh có nguyên nhân từ lệ quản nên kết quả sẽ cao hơn so với hai tác giả trên. Bên cạnh đó, sự khác biệt còn có thể xuất phát từ đặc điểm của nhóm đối tượng nghiên cứu. Cụ thể, toàn bộ 33/33 mắt thuộc nhóm nghiên cứu của tác giả Gardiner đều đã thông lệ đạo thất bại trước đó. Điều này đã khiến cho tỷ lệ thành công giảm thấp. Với nghiên cứu của tác giả Mac Ewen và Kouri, nhóm đối tượng nghiên cứu có độ tuổi phân bố rộng, tuổi cao nhất lên đến 126 tháng. Trong bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh ở trẻ lớn, người ta nhận thấy có sự gia tăng tỷ lệ các dạng tắc nghẽn phức tạp, các bất thường vùng mũi đi kèm. Chính điều này khiến cho tỷ lệ thành công của phương pháp thông lệ đạo ở trẻ lớn giảm thấp. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi vẫn thấp hơn so với công trình của tác giả Cakmak (94,4%)(1) do tác giả chỉ chọn can thiệp trên những trẻ chưa thông lệ đạo. Cho đến hiện nay, trong các nghiên cứu về phương pháp thông lệ đạo có kết hợp nội soi mũi trong điều trị bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh, công trình của tác giả Ossama M.H. cho tỷ lệ thành công cao nhất: 97,0% ở lần thông đầu và 100% ở lần thông thứ 2(9). Sự khác biệt này có thể giải thích bởi ba yếu tố chính. Thứ nhất, tác giả chọn thời điểm tiến hành can thiệp sớm (4 tháng), do đó tỷ lệ thành công sẽ bao gồm luôn những trường hợp tự khỏi. Thứ hai, chủ động chọn những trẻ chưa có can thiệp trước đó và giới hạn tuổi cao nhất trong nghiên cứu (48 tháng). Điều này đã hạn chế các trường hợp tắc nghẽn phức tạp hoặc những bất thường vùng mũi đi kèm thường xảy ra ở trẻ lớn. Cuối cùng, tác giả tiến hành bẻ cuống mũi trên toàn bộ mẫu nhằm làm thông thoáng tại vị trí lỗ đổ của ống lệ mũi vào hốc mũi. Khi phân tích tỷ lệ thành công theo nhóm tuổi nhận thấy tỷ lệ này giảm dần theo nhóm tuổi. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt này do đặc điểm trong bệnh lý tắc lệ đạo bẩm sinh, tỷ lệ tắc nghẽn phức tạp, phối hợp với những bất thường vùng sọ mặt, mũi xoang tăng cao ở trẻ lớn, làm giảm tỷ lệ thành công của thủ thuật thông lệ đạo. Nghiên cứu của tác giả Wallace cho tỷ lệ thành công 96,4% ở nhóm từ 12 đến 24 tháng; 84,5% ở nhóm trên 24 tháng(10). Tỷ lệ này là cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi, có thể do tác giả Wallace tiến hành thông lệ đạo trên những trẻ không có tiền căn can thiệp trước đó. Tỷ lệ thành công tỉ lệ nghịch với số lần can thiệp thông lệ đạo trước đó. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, tương quan nghịch giữa tỷ lệ thành công và số lần can thiệp thông lệ đạo trước đó, mức độ tương quan thấp (R = - 0,38). Trong những nghiên cứu trước đây chưa có phân tích ghi nhận về mối tương quan này có lẽ một phần là do hầu hết các nghiên cứu tiến hành ở ngay lần thông đầu tiên hoặc đã chuyển sang áp dụng một phương pháp điều trị khác như phẫu thuật đặt ống nong lệ đạo, phẫu thuật tiếp khẩu túi lệ - mũi chứ không cố gắng tiến hành thông lại nhiều lần như ở nước ta. Trong khi đó ở nước ta hiện nay, do tâm lý sợ gây mê của thân nhân bệnh nhi kèm với tình trạng thiếu trang thiết bị và đội ngũ nhân viên y tế chuyên về mắt nhi, gây mê nhi tại các cơ sở y tế các