Đánh giá kết quả lâu dài của kỹ thuật Lichtenstein trong điều trị thoát vị bẹn

Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, kỹ thuật Lichtenstein đã được áp dụng từ 2002 trong điều trị thoát vị bẹn, nhưng đến nay chỉ có những kết quả ngắn hạn về phẫu thuật này, nên nghiên cứu này nhằm vào việc đánh giá tỷ lệ tái phát của phẫu thuật trong thời gian lâu hơn sau mổ (2-8 năm). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, theo dõi bệnh nhân bằng điện thoại, cỡ mẫu >188 (p<0,05). Kết quả: Có 202 bệnh nhân được theo dõi với 210 ca mổ gồm 177 ca nguyên phát và 31 ca tái phát. Kết quả theo dõi cho thấy có 2 ca tái phát (0,96%) sớm sau mổ, 11 ca đau mạn tính vùng bẹn (5,3%) và 1 ca bị nhiễm trùng mảnh ghép muộn (0,47%). Kết luận: Lichtenstein là kỹ thuật mổ thoát vị bẹn rất hiệu quả với tỷ lệ tái phát thấp (<1%) sau mổ 2-8 năm (trung bình 4,7 năm).

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả lâu dài của kỹ thuật Lichtenstein trong điều trị thoát vị bẹn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 108 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LÂU DÀI CỦA KỸ THUẬT LICHTENSTEIN TRONG ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ BẸN Vương Thừa Đức*, Nguyễn Phúc Minh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, kỹ thuật Lichtenstein đã được áp dụng từ 2002 trong điều trị thoát vị bẹn, nhưng đến nay chỉ có những kết quả ngắn hạn về phẫu thuật này, nên nghiên cứu này nhằm vào việc đánh giá tỷ lệ tái phát của phẫu thuật trong thời gian lâu hơn sau mổ (2-8 năm). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, theo dõi bệnh nhân bằng điện thoại, cỡ mẫu >188 (p<0,05). Kết quả: Có 202 bệnh nhân được theo dõi với 210 ca mổ gồm 177 ca nguyên phát và 31 ca tái phát. Kết quả theo dõi cho thấy có 2 ca tái phát (0,96%) sớm sau mổ, 11 ca đau mạn tính vùng bẹn (5,3%) và 1 ca bị nhiễm trùng mảnh ghép muộn (0,47%). Kết luận: Lichtenstein là kỹ thuật mổ thoát vị bẹn rất hiệu quả với tỷ lệ tái phát thấp (<1%) sau mổ 2-8 năm (trung bình 4,7 năm). Từ khóa: Lichtenstein, tỷ lệ tái phát, thoát vị bẹn. ABSTRACT LONG TERM RECURRENCE RATES AFTER LICHTENSTEIN REPAIR Vuong Thua Duc, Nguyen Phuc Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 108 - 114 Background: In Vietnam, Lichtenstein repair has been used in treatment of the inguinal hernias since 2002. We reported its early results (following up time < 2 years) in 2003 and 2004. So, this study is to estimate the recurrence rates of this repair in longer time of follwing up (2-8 years after operation). Methode: Cross sectional study. Most patients were followed up mainly by phone. Results: There were 202 patients with 210 cases (177 primary and 31 recurrent inguinal hernias) of Lichtenstein repairs followed up. We found 2 cases of recurrence (0.97%), 11 cases of chronic groin pain (5.3%) and 1 case of late mesh infection (0.47%). Conclusion: Lichtenstein repair was an effective treatment of the inguinal hernia with low recurrence rates (< 1%) after 2-8 years (4.7 years in average). Key words: Lichtenstein repair, recurrence rates, inguinal hernia . ĐẶT VẤN ĐỀ Có nhiều phẫu thuật khác nhau để điều trị thoát vị bẹn. Tiêu chí hàng đầu để đánh giá sự thành công của phẫu thuật thoát vị là tỷ lệ tái phát. Trước kia, phẫu thuật dùng mô tự thân mà đại diện là Bassini được dùng rất phổ biến với tỷ lệ tái phát thay đổi từ 5-20% sau 5 năm (trung bình là 10%)(5,9). Từ sau khi dùng các loại mảnh ghép nhân tạo trong điều trị thoát vị bẹn, tỷ lệ tái phát giảm đáng kể thường dưới 5%. Kỹ thuật dùng mảnh ghép phổ biến nhất hiện nay trên thế giới là Lichtenstein với tỷ lệ tái phát thay đổi từ 0,5% đến 4%(7,11,13). Tại Việt Nam, từ năm 2002, kỹ thuật này bắt đầu được áp dụng và vào năm 2004 được chúng tôi báo cáo đầu tiên với tỷ lệ tái phát là 0,97% (115 ca mổ)(15) với thời gian theo * Bộ môn Ngoại, khoa Y, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: TS BS. Vương Thừa Đức, ĐT: 0903979725, Email: vuongthuaduc@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 109 dõi khá ngắn là từ 1-2 năm. Tuy nhiên, tỷ lệ này có thể chưa phản ảnh đúng tỷ lệ tái phát thực vì số ca mổ chưa nhiều và có thể có những trường hợp tái phát muộn (sau 2 năm). Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá chính xác hơn về tỷ lệ tái phát, không chỉ kết quả ngắn mà còn kết quả dài hạn (sau 2 năm) với số ca mổ nhiều hơn. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Hồi cứu. Đối tượng nghiên cứu - Bệnh nhân trên hoặc bằng 18 tuổi. - Được mổ thoát vị bẹn bằng kỹ thuật Lichtenstein từ cuối năm 2008 trở về trước. - Có địa chỉ cụ thể rõ ràng hoặc có số điện thoại liên lạc lưu trong hồ sơ. Tiêu chuẩn loại trừ Chúng tôi loại trừ không đưa vào nghiên cứu này những trường hợp không mổ tại BV Bình Dân và không liên lạc được. Cỡ mẫu 188)1().2/1( 2 2 = −− = d ppZN α Trong đó: Z= 1,96 (với α = 0,05). P= 0,02 (2%) (tỷ lệ tái phát tính trung bình, theo Marin (7) là 2,2% sau 5 năm. d= 0,02 (sai số trong tính toán). Tiến hành nghiên cứu - Chúng tôi tìm lại các bệnh án được mổ từ năm tháng 1/2002 - 10/2008. - Liên lạc với bệnh nhân qua số điện thoại lưu trong hồ sơ bệnh án. Nếu trong trường hợp không có số điện thoại lưu trong hồ sơ bệnh án thì thông qua các địa chỉ chúng tôi truy ra số điện thoại cố định bằng cách gọi tổng đài 1080. rồi từ đó liên lạc với bệnh nhân. Chúng tôi tập trung gọi vào tháng 10/2010, do đó thời gian theo dõi ngắn nhất là từ 2 đến 3 năm. - Gọi bệnh nhân để hỏi thông tin về: tái phát, đau vùng bẹn mạn tính sau mổ. Các dữ liệu nghiên cứu - Tuổi, phái. - Loại thoát vị (gián tiếp hay trực tiếp, nguyên phát hay tái phát). - Thời gian theo dõi. - Tỷ lệ tái phát. - Tình trạng đau vùng bẹn mạn tính. - Các biến chứng khác (nhiễm trùng mảnh ghép, teo tinh hoàn). Lưu trữ và phân tích dữ liệu Bằng phần mềm Microsoft Excel 2003 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Có 202 bệnh nhân theo dõi được đưa vào nghiên cứu. Chúng tôi dùng từ ca chỉ mỗi bên thoát vị được mổ. Nếu bệnh nhân mổ thoát vị bẹn 2 bên chúng tôi xem như 2 ca mổ. Do đó, tuy chúng tôi chỉ có 202 bệnh nhân nhưng lại có đến 210 ca mổ (có 8 bệnh nhân mổ 2 bên). Tuổi Tuổi trẻ nhất là 18 tuổi và già nhất là 93 tuổi, trung bình là 54,5 + 27,5 Bảng 1: Phân bố tuổi bệnh nhân. Tuổi Số BN (n=202) Tỷ lệ (%) 18-30 26 12,9 31-40 24 11,9 41-50 26 12,9 51-60 34 16,8 61-70 48 27,8 71-80 32 15,8 >80 12 5,9 Giới Tuyệt đại đa số bệnh nhân của chúng tôi là nam giới (98%), nữ giới chỉ có 4 người (2%). Bảng 2: Phân bố giới tính bệnh nhân. Giới Số BN (n=202) Tỷ lệ (%) Nam 198 98 Nữ 4 2 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 110 Loại thoát vị Chúng tôi phân loại thoát vị bẹn dựa trên quan sát trong lúc mổ (trực tiếp, gián tiếp, hỗn hợp) bất kể là thoát vị đó nguyên phát hay tái phát. Chúng tôi ghi nhận có 177 ca nguyên phát (85,1%) và 31 ca tái phát (14,9%). Trong số ca tái phát có 30 ca tái phát sau kỹ thuật Bassini và 1 ca sau mổ nội soi. Bảng 3: Phân loại thoát vị. Loại thoát vị Số ca (210) Tỷ lệ (%) Nhỏ 21 10 Vừa 75 35,7 Gián tiếp Lớn 45 21,4 Vừa 18 8,6 Trực tiếp Lớn 37 17,6 Hỗn hợp 14 6,6 Thời gian theo dõi Thời gian theo dõi được tính bằng năm, từ lúc mổ cho đến khi được tái khám hoặc liên lạc được lần sau cùng. Có 7 bệnh nhân chết vì những bệnh khác không liên quan đến thoát vị hoặc do tuổi già vào thời điểm khảo sát. Chúng tôi tính thời gian theo dõi ở những bệnh nhân này (cả 7 người này đều không bị tái phát theo lời người thân) là từ lúc mổ đến lúc chết. Thời gian theo dõi ngắn nhất là 2 năm và lâu nhất là 8 năm, trung bình là 4,7 năm. Bảng 4: Thời gian theo dõi. Thời gian Số ca (210) Tỷ lệ (%) 2-3 98 46,6 3-4 11 5,2 4-5 13 6,2 5-6 12 5,7 6-7 24 11,4 7-8 52 24,8 Kết quả theo dõi Vào thời điểm khảo sát, chúng tôi chỉ tái khám được 3 người, còn lại chủ yếu là hỏi qua điện thoại. Chúng tôi ghi nhận có 2 ca bị tái phát, tỷ lệ tái phát tính chung là 2/210 (0,95%), nếu tính riêng cho thoát vị bẹn nguyên phát là 1/179 (0,56%) và tái phát là 1/31 (3,1%). Cả 2 trường hợp này đều tái phát sớm sau mổ (bệnh án số: 202-09875 và 97-07149), 1 ca sau mổ 4 tháng và 1 ca sau mổ 6 tháng. Ngoài ra, từ sau đó chúng tôi không ghi nhận được ca tái phát nào khác. Vào thời điểm khảo sát, chúng tôi ghi nhận có 11 bệnh nhân (5,3%) đau vùng bẹn, ngoài ra có 2 người khác cho biết bị đau vùng bẹn trong thời gian đầu (khoảng 1- 2 năm sau mổ) nhưng về sau tự hết đau. Tất cả đều là đau nhẹ, không thường xuyên và không cần dùng thuốc giảm đau. Trong số 11 bệnh nhân đau vùng bẹn có 2 người vừa đau vừa dị cảm (một người có cảm giác nặng, một người bị tê). Có 1 bệnh nhân bị nhiễm trùng mảnh ghép (0,47%) xuất hiện muộn sau mổ 2 năm (bệnh án số 207-19106), lần đầu mổ năm 2007, lần sau mổ lại để tháo mảnh ghép vào năm 2009, nhưng khi liên lạc được vào tháng 10/2010 thì bệnh nhân này may mắn không bị tái phát. Bảng 5: Kết quả lâu dài sau mổ. Kết quả Số ca (210) Tỷ lệ (%) Tái phát 2 0,96 Đau mạn tính 11 5,3 Nhiễm trùng MG 1 0,47 BÀN LUẬN Tỷ lệ tái phát Tái phát là vấn đề lớn nhất của phẫu thuật thoát vị và cũng là tiêu chí chủ yếu để người ta đánh giá và so sánh các kỹ thuật mổ khác nhau. Việc theo dõi bệnh nhân sau mổ tốt nhất là tái khám, tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được, nhất là ở những thời điểm xa sau mổ. Một số các nghiên cứu trước đây vẫn còn dùng thư từ để đánh giá kết quả lâu dài sau mổ (5,9,10,11,13). Tuy nhiên, do sự phát triển của công nghệ thông tin như mạng Internet, điện thoại, việc theo dõi đã đơn giản hơn nhiều. Tại Việt Nam hiện nay, hệ thống điện thoại đã phát triển rất rộng rãi, hầu như mọi bệnh nhân hoặc thân nhân của họ đều có điện thoại cố định hay điện thoại di động. Chúng tôi đã ghi lại những số điện thoại này vào bệnh án trong thời Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 111 gian bệnh nhân nằm viện, và dùng chúng để theo dõi tình hình bệnh nhân sau mổ. Một số tác giả khác, bên cạnh việc tái khám bệnh nhân cũng dùng điện thoại để theo dõi lâu dài sau mổ(12,13). Kỹ thuật dùng mô tự thân Stephenson(12) cho rằng, đây là những kỹ thuật nhằm ráp các mô lại một cách không bình thường, để phục hồi giải phẫu học bình thường, nên càng gây biến dạng thêm cho cấu trúc vốn đã bị khiếm khuyết; và tất yếu sẽ gây căng, dù có rạch dãn. Sau phẫu thuật dùng mô tự thân, cần theo dõi lâu để đánh giá tỷ lệ tái phát vì, có đến 50% trường hợp tái phát chưa xuất hiện trong 5 năm đầu và 20% chưa xuất hiện trong 15-25 năm sau lần mổ đầu tiên(6,13). Tái phát trong những năm đầu (tái phát sớm) thường là do lỗi kỹ thuật như, gây căng, nhiễm trùng, bỏ sót thoát vị(6). Sau thời gian này, khi mô bị suy yếu thì tái phát thực sự mới xảy ra. Vì vậy, thời gian theo dõi thoát vị phải 10 năm trở lên mới tạm đủ để đánh giá tái phát(13). Những tổng kết lớn cho thấy, tỷ lệ tái phát của kỹ thuật dùng mô tự thân ở các cơ sở đa khoa là 5-15%(4,6,12,13), trong khi đó; ở những trung tâm chuyên môn về thoát vị lại rất thấp, chỉ khoảng 1%(6,10). Sự khác biệt này chủ yếu là do kinh nghiệm(16) của người bác sĩ phẫu thuật hơn là do phương pháp mổ. Wantz (1991) đã rất đúng khi nói rằng “Sự khéo léo và kinh nghiệm của phẫu thuật viên còn quan trọng hơn phương pháp mổ mà họ sử dụng “. Nhìn chung, Shouldice vẫn là kỹ thuật tốt hơn cả trong số các kỹ thuật dùng mô tự thân, nếu được mổ trong tay những bác sĩ phẫu thuật kinh nghiệm, tổng kết mới nhất của Shouldice Clinic (1983-2002)(10) cho thấy tỷ lệ tái phát chung là 2,2% (84/3799 ca). Kỹ thuật dùng mảnh ghép Nếu như Shouldice là tiêu chuẩn vàng vào thập niên 1980 của phẫu thuật thoát vị thì hiện nay, qua hơn 30 năm dùng mảnh ghép, kinh nghiệm về những kỹ thuật này đã đủ nhiều để chúng thực sự trở nên tiêu chuẩn vàng mới trong điều trị thoát vị bẹn(13). Những kết quả của các trung tâm thoát vị là khá ấn tượng với tỷ lệ tái phát khoảng 0,5%. Một nghiên cứu ngẫu nhiên về thoát vị (tập hợp từ 15 nghiên cứu) của Liên minh châu Âu (EU)(13) trên 4000 bệnh nhân cho thấy, kỹ thuật Shouldice tái phát nhiều gấp 5 lần, và các kỹ thuật dùng mô tự thân khác nhiều gấp 6 lần nếu so với Lichtenstein. Tỷ lệ tái phát là 4,4% nếu không dùng mảnh ghép so với 1,4% nếu dùng mảnh ghép. Điều đặc biệt là, khác với sự tái phát sau phẫu thuật dùng mô tự thân, sau phẫu thuật Lichtenstein người ta nhận thấy là nếu thời gian theo dõi càng lâu thì càng ít gặp tái phát(13). Marin (1998)(7), trong một hồi cứu gồm 961 ca mổ trong 5 năm tại một đơn vị ngoại khoa trong ngày, đã ghi nhận có 4,4% bị rắc rối sau mổ nhưng không có ca nào bị thải bỏ mảnh ghép, trên 95% bệnh nhân hài lòng với cuộc mổ, và tỷ lệ tái phát là 2,2% (0,7% đối với thoát vị nguyên phát, 5,2% đối với thoát vị tái phát). Từ đó, ông kết luận rằng Lichtenstein là một kỹ thuật mổ hứa hẹn cho thoát vị bẹn trong điều kiện ngoại trú. Nghiên cứu của EU(13) tính toán là, với việc dùng mảnh ghép, cứ mỗi 17 ca mổ thoát vị thì có ít hơn 1 ca tái phát nếu so với những kỹ thuật mổ kinh điển, hay nói một cách khác, nhờ dùng mảnh ghép cứ mỗi năm tại Mỹ và châu Âu giảm được 40.000 ca tái phát. Kết quả này gây ấn tượng đến nỗi ngay cả những chuyên gia về thoát vị, vốn trước đây thích dùng mô tự thân (như Wantz, Rutledge, Bendavid), nay cũng chuyển qua dùng mảnh ghép. Điều đáng chú ý là, nếu như các kỹ thuật dùng mô tự thân chỉ đạt được kết quả tốt trong tay những chuyên gia về thoát vị thì các kỹ thuật dùng mảnh ghép vẫn đạt được kết quả tốt trong tay những người chuyên hoặc không chuyên, điều này cho thấy tính đơn giản và dễ ứng dụng của phẫu thuật dùng mảnh ghép. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 112 Bay-Nielsen(2) đã có những ghi nhận như nhau về nguyên nhân tái phát sau phẫu thuật Lichtenstein, cho thấy phần lớn các trường hợp tái phát (62%) là dạng trực tiếp và ở mé trong hay trên xương mu. Lỗi kỹ thuật này đã từng được Lichtenstein lưu ý từ năm 1993, và ông đã nhấn mạnh đến yêu cầu phải phủ mảnh ghép dư ít nhất 2 cm bên trong củ mu. Chi tiết kỹ thuật này có lẽ đã không được chú ý đúng mức và sau này Amid(1) đã phải nêu lại như là một trong những nguyên tắc phẫu thuật nhằm làm giảm tái phát. Theo chúng tôi, do thể hình nguời Việt Nam nhỏ hơn người phương Tây nên chỉ cần phủ dư ở vị trí này chừng 1-1.5 cm là được(15). Các dạng tái phát còn lại (cũng theo Bay-Nielsen)(2) gồm, 17% tái phát dạng gián tiếp, 13% đùi, và 8% không xác định rõ. Hai ca tái phát trong nghiên cứu này cũng xảy ra ở vị trí cận xương mu tương tự như Bay Nielsen đã lưu ý, được chúng tôi phát hiện sớm sau mổ (trong vòng 6 tháng). Rút kinh nghiệm từ ca tái phát này (chúng tôi đã trực tiếp mổ lại), chúng tôi nhận thấy rằng nhất thiết phải khâu mảnh ghép vào xương mu để đảm bảo mảnh ghép không bị tuột ra khỏi vị trí này sau khi nó được tổ chức hóa vì khi đó mảnh ghép sẽ bị co lại theo mọi hướng (giảm khoảng 20-30% diện tích) do mô sợi thâm nhập vào. Chúng tôi cũng đồng ý rằng, khác với các phẫu thuật thoát vị dùng mô tự thân, sau phẫu thuật Lichtenstein càng theo dõi lâu càng ít thấy tái phát, ngoài 2 ca tái phát sớm đã nói trên chúng tôi không ghi nhận thêm ca nào tái phát sau đó nữa. So sánh giữa Lichtenstein và mổ nội soi Chung và Rowland (1999)(13) ở Canada, trong một phân tích meta, tổng kết từ 14 nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên giữa mổ mở và mổ nội soi, đã kết luận rằng mổ nội soi làm mất thời gian nhiều hơn, đắt tiền hơn, nhưng bệnh nhân sau mổ nội soi ít bị đau và hồi phục lao động nhanh hơn. Tuy nhiên, so về tỷ lệ tái phát thì cả 2 kỹ thuật mổ đều như nhau. Tổng kết của EU(14) có phân tích meta (2002) với 4165 bệnh nhân và của McCormack (2003) (8) với 7141 bệnh nhân, đã đi đến kết luận rằng bệnh nhân mổ nội soi ít đau hơn và hồi phục nhanh hơn, nhưng xét về tỷ lệ tái phát thì cũng tương đương với mổ mở dùng mảnh ghép. Voyles (2002)(14), trong một phân tích meta với 4688 bệnh nhân, đã kết luận rằng bệnh nhân sau mổ nội soi hồi phục nhanh hơn so với mổ kinh điển dùng mô tự thân. Tuy nhiên, ông cũng kết luận rằng, việc dùng mảnh ghép qua mổ mở cũng có thể giúp bệnh nhân hồi phục nhanh gần tương tự như mổ nội soi mà lại ít tốn kém hơn và ít biến chứng hơn. Đau vùng bẹn mạn tính sau mổ thoát vị Trước đây, đau mạn tính sau mổ thoát vị bẹn được xem như là một biến chứng ít gặp. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng nó không phải là hiếm, thậm chí có báo cáo cho thấy có đến 1/3 bệnh nhân khó chịu ít nhiều sau mổ thoát vị từ 12 tháng hoặc lâu hơn(12). Khác với những tình trạng đau do liên quan đến tổn thương nhánh thần kinh (đau xuất hiện sớm ngay sau mổ, do phạm một nhánh thần kinh nào đó), đau mạn tính thường bắt đầu khỏang 1 năm sau mổ. Những nghiên cứu lâm sàng cho thấy, đau mạn tính chiếm tỷ lệ cao sau mổ thóat vị gồm cả mổ có hoặc không dùng mảnh ghép. Klosterhalfen(5) khi nghiên cứu về những mảnh ghép được tháo ra cho thấy, hầu hết những trường hợp có tiền sử đau mạn tính thì trong những khe, lỗ của mảnh ghép có sự hiện diện của những sợi và bó sợi thần kinh. Ngày nay, bằng kỹ thuật nhuộm hóa mô miễn dịch người ta thấy được cả những cấu trúc thần kinh nhỏ nhất vốn gặp nhiều ở mô hạt viêm xung quanh mảnh ghép. Do bản chất của mô hạt viêm là một tình trạng viêm mạn tính, nên nó gây kích thích những cấu trúc thần kinh này và tạo nên cảm giác đau. Trong vài trường hợp, người ta còn phát hiện những u thần kinh (neuroma), là một bằng chứng của sự hủy họai cơ học của sợi thần kinh gây ra bởi mảnh ghép, ở nơi tiếp giáp giữa mảnh ghép và ký chủ. Tất cả những mảnh ghép nặng, lỗ nhỏ lấy ra đều có tỷ lệ cao liên quan đến những tình trạng đau mạn tính. Trong khi đó, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 113 mảnh ghép nhẹ, lỗ lớn do giảm đáng kể bề mặt tiếp xúc với ký chủ, nên cũng giảm được phản ứng của mô với mảnh ghép, và kết quả là giảm đau mạn tính sau mổ(5). Amid (2002)(1) đã báo cáo 49 trường hợp đau sau mổ thoát vị được mổ lại, trong đó chỉ có 12% bị u thần kinh (neuroma), 20% bị đè ép sợi thần kinh, và đa số còn lại (68%) là do xơ hóa xung quanh sợi thần kinh. Điều đáng lưu ý là có đến 96% bệnh nhân trong số đó đều hài lòng với kết quả phẫu thuật. Stephenson(12) đã gửi thư cho 80 bệnh nhân sau mổ mở đặt mảnh ghép 4-5 tháng và nhận được 70 thư trả lời (88%), trong đó có đến 29% ghi nhận có sự không thoải mái ở vùng bẹn mặc dù không có ai trong số đó phải dùng thuốc giảm đau thường xuyên hay phải thay đổi lối sống, và điều đặc biệt là tất cả đều nói rằng họ sẵn sàng chịu mổ tương tự ở bên còn lại nếu bị thoát vị trong tương lai. Stephenson cũng cho rằng, phần lớn tình trạng đau sau mổ thoát vị vừa là do tổn thương mô vừa là do ảnh hưởng thần kinh (xơ hóa xung quanh sợi thần kinh) và đã đưa ý kiến về việc đổ chất chống xơ hóa (tương tự như trong tắc ruột do dính) vào trường mổ thoát vị bẹn. Courtney đã gửi thư lần 2 cho những bệnh nhân sau mổ 30 tháng mà lần đầu (sau mổ 4-5 tháng) đã trả lời rằng họ bị đau trầm trọng (tỷ lệ 3%) và thu được 75 thư trả lời. Kết quả cho thấy: 22 người (0,5%) cho rằng họ vẫn đau như cũ, 39 người (0,9%) trả lời rằng họ giảm đau nhiều, chỉ còn đau nhẹ hoặc rất nhẹ, chỉ có 14 người (0,3%) phải điều trị giảm đau. Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận: có 11 bệnh nhân (5,6%) vẫn còn đau vào thời điểm khảo sát (sau mổ 2-8 năm), và may mắn là tất cả đều đau nhẹ và không bệnh nhân nào cần dùng thuốc giảm đau. Ngoài ra, chúng tôi còn lưu ý có 2 bệnh nhân khác tự hết đau sau 2 năm, điều này cho thấy xu hướng giảm đau dần khi mảnh ghép được tổ chức hóa tốt, mô hạt viêm giảm dần, ít gây kích thích lên các cấu trúc thần kinh xung quanh. Tỷ lệ đau sau mổ trong nghiên cứu này của chúng tôi khá thấp nếu so với tỷ lệ chung nêu trên có thể vì những bệnh nhân của chúng tôi được khảo sát ở thời điểm khá xa sau mổ, cũng có thể do chỉ hỏi qua điện thoại nên không tìm thấy những trường hợp đau thoáng qua hoặc dị cảm nhẹ.. Nhiễm trùng mảnh ghép Tỷ lệ nhiễm trùng trong một cuộc mổ sạch như mổ thoát vị bẹn vốn khá thấp (#1%), nhưng tỷ lệ nhiễm trùng mảnh ghép còn thấp hơn rất nhiều (#0,1%)(3,16). Nhiễm trùng mảnh ghép là biến chứng đáng ngại nhất và được coi là gót chân Achilles của phẫu thuật thoát vị có dùng mảnh ghép. Nhiễm trùng mảnh ghép có t
Tài liệu liên quan