Đặt vấn đề và mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản bằng phẫu thuật lấy sỏi qua nội soi sau
phúc mạc.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện ở 422 bệnh nhân sỏi niệu quản
đoạn 1/3 trên, được phẫu thuật mở niệu quản nội soi qua đường sau phúc mạc tại BV ĐK tỉnh Quảng Trị.
Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân: 43 tuổi. Thời gian phẫu thuật trung bình 38 phút (ngắn nhất 22
phút, dài nhất 130 phút). 418 bệnh nhân được đặt 3 trô ca, 4 trường hợp được đặt 4 trô ca, 4 trường hợp chuyển
mổ mở. Tái biến, biến chứng thường gặp là tràn khí dưới da (13 bệnh nhân), rách phúc mạc (4 bệnh nhân). Thời
gian hậu phẫu trung bình là 4,5 ngày (ngắn nhất 2,5 ngày, dài nhất nhất 11 ngày).
Kết luận: Phẫu thuật lấy sỏi niệu quản qua nội soi sau phúc mạc tại bệnh viện Đa khoa Tỉnh Quảng trị là
một phẫu thuật an toàn, hiệu quả và dễ thực hiện.
4 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi mở niệu quản lấy sỏi qua ngả sau phúc mạc tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị trong vòng 7 năm (2005-2012), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 255
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI MỞ NIỆU QUẢN LẤY SỎI
QUA NGẢ SAU PHÚC MẠC TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH QUẢNG
TRỊ TRONG VÒNG 7 NĂM (2005-2012)
Nguyễn Xuân Dũng*, Phan Khánh Việt*, Nguyễn Văn Bình*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản bằng phẫu thuật lấy sỏi qua nội soi sau
phúc mạc.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện ở 422 bệnh nhân sỏi niệu quản
đoạn 1/3 trên, được phẫu thuật mở niệu quản nội soi qua đường sau phúc mạc tại BV ĐK tỉnh Quảng Trị.
Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân: 43 tuổi. Thời gian phẫu thuật trung bình 38 phút (ngắn nhất 22
phút, dài nhất 130 phút). 418 bệnh nhân được đặt 3 trô ca, 4 trường hợp được đặt 4 trô ca, 4 trường hợp chuyển
mổ mở. Tái biến, biến chứng thường gặp là tràn khí dưới da (13 bệnh nhân), rách phúc mạc (4 bệnh nhân). Thời
gian hậu phẫu trung bình là 4,5 ngày (ngắn nhất 2,5 ngày, dài nhất nhất 11 ngày).
Kết luận: Phẫu thuật lấy sỏi niệu quản qua nội soi sau phúc mạc tại bệnh viện Đa khoa Tỉnh Quảng trị là
một phẫu thuật an toàn, hiệu quả và dễ thực hiện.
Từ khóa: Sỏi niệu quản, phẫu thuật nội soi sau phúc mạc.
ABSTRACT
RETROPERITONEAL LAPAROSCOPIC URETEROLITHOTOMY FOR TREATMENT
OF URETERAL STONE AT QUANG TRI PROVINCE HOSPITAL: RESULTS WITHIN 7
YEARS (2005-2012)
Nguyen Xuan Dung, Phan Khanh Viet, Nguyen Van Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3- 2012: 256 - 258
Introduction and Objective: To evaluate results of ureteral stone treatment by retroperitoneal laparoscopic
ureterolithotomy.
Subjects and Methods: The study was conducted in 422 patients with the third upper ureteral stones
treated by retroperitoneal laparoscopic ureterolithotomy at Quang Tri Province hospital.
Results: The mean age of patients: 43 years old. The average surgical time: 38 minutes (the shortest 22
minutes, the longest 130 minutes). 418 patients were placed three trocars, 4 cases four trocars are placed, four
transfer open surgery. Accidents and complications were subcutaneous emphysema (13 patients), peritoneal tear
(4 patients). The average postoperative time: 4.5 days.
Conclusion: Retroperitoneal laparoscopic ureterolithotomy for treatment of ureteral stones at Quang Tri
Province hospital is a safe, efficient method.
Key words: Retroperitoneal laparoscopy, retroperitoneal laparoscopic ureterolithotomy, ureteral stone.
* Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Xuân Dũng ĐT: 0972343678 Email:bsnguyenxuandungqt@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 256
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi niệu quản là bệnh lý thường gặp gây tổn
thương thận nhanh nhất, có nhiều phương pháp
điều trị khác nhau như: nội khoa, tán sỏi ngoài
cơ thể, tán sỏi qua nội soi ngược dòng, mổ lấy
sỏi. Năm 1992 Gaur là người đầu tiên mô tả kỹ
thuật dùng bóng nước để mở khoang sau phúc
mạc tạo khoang phẫu thật cho phẫu thuật nội
soi. Ở Việt Nam, Lê Đình Khánh là người đầu
tiên mổ lấy sỏi niệu quản qua nội soi sau phúc
mạc (năm 2001). Hiện nay nội soi sau phúc mạc
đã được phổ biến rộng rãi trong điều trị một số
bệnh lý của cơ quan tiết niệu trên.
Tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị, từ
tháng 12/2005 đến tháng 05/2012 chúng tôi đã
thực hiện được 422 trường hợp mổ lấy sỏi niệu
quản nội soi qua ngả sau phúc mạc. Đề tài này
nhằm mục tiêu:
Đánh giá kết quả lấy sỏi niệu quản đoạn trên
qua nội soi sau phúc mạc tại bệnh viện đa khoa Tỉnh
Quảng Trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng
Bao gồm 422 bệnh nhân có sỏi niệu quản
đoạn trên từ khúc nối bể thận –niệu quản đến
dưới mào chậu 2cm được phẫu thuật qua nội soi
sau phúc mạc tại Bệnh viện Đa khoa Tỉnh
Quảng Trị trong vòng 7 năm từ tháng 12/2005
đến tháng 06/2012.
Phương pháp nghiên cứu
Phương tiện
+ Bộ máy mổ nội soi tổng quát của hãng
K.Storz.
+ Găng vô trùng, dùng ngón giữa để bơm
hơi để nong rộng khoang sau phúc mạc.
Kỹ thuật
+ Mê NKQ.
+ Tư thế nằm nghiêng cổ điển có độn lưng.
+ Phẫu thuật viên và người phụ đứng cùng
bên về phía lưng của bệnh nhân.
+ Kỹ thuật đặt Trocar: Trocar 10mm đầu tiên
được đặt dưới đầu sườn XII, ngay góc sườn
lưng. Tách rộng bằng kelly vào khoang sau
phúc mạc, đặt ngón tay găng vô trùng vào
khoang sau phúc mạc, bơm khoảng 300ml khí
trời nong rộng tạo khoang phẫu thuật, đưa
Optic 10mm (300) quan sát hướng dẫn đặt các
trocar tiếp theo.Trocar 10mm thứ 2 (Hoặc 5mm)
đặt ngay trên mào chậu khoảng 1cm trên đường
nách sau.
Trocar 5mm đặt sát mép phúc mạc tùy thuộc
vào vị trí của viên sỏi.
+ Tiến hành bóc tách khoang sau phúc mạc
tìm niệu quản, dựa vào 2 mốc giải phẫu chính là
cơ thắt lưng chậu và tĩnh mạch sinh dục.
+ Bộc lộ và cố định niệu quản, xẻ niệu quản
theo chiều dọc bằng dao lạnh, hoặc dao điện
đơn cực với chế độ cắt, đưa sỏi niệu quản ra
ngoài qua trocar 10mm, khâu phục hồi niệu
quản bằng Vicryl 4.0 mũi rời, đặt dẫn lưu
khoang sau phúc mạc.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung
Tuổi
Cao nhất: 78 tuổi.
Thấp nhất: 17 tuổi.
Độ tuổi trung bình: 43 tuổi.
Giới
Nam: 248 bệnh nhân chiếm 60,1%
Nữ: 64 bệnh nhân chiếm 39,9%.
Vị trí sỏi
Niệu quản (P): 219 bệnh nhân (53,1%).
Niệu quản (T): 193 bệnh nhân (46,9%).
Mở niệu quản kèm mở nhu mô thận lấy sỏi: 7
trường hợp (1,7%).
Kích thước sỏi: (Chiều lớn nhất)
Trung bình: 1,5cm.
Lớn nhất: 2,3cm.
Nhỏ nhất: 0,8cm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 257
Mức độ giãn thận
Độ I: 157 (38,1%).
Độ II: 113 (27,4%).
Độ II: 142 (34,5%).
Thời gian mổ
Trung bình 38 phút.
Nhanh nhất 22 phút.
Lâu nhất 130 phút.
Đặt thông JJ niệu quản: 6 trường hợp (1,46%)
Số lượng Trocar
3 trocar: 410 trường hợp, trong đó:
+ 2 trocar 10 và 1 trocar 5: 195 trường hợp
(47,3%)
+ 1 trocar 10 và 2 trocar 5: 217 trường hợp
(52,7%)
4 trocar: 2 trường hợp
Tai biến trong khi mổ
4 trường hợp rách phúc mạc, được khâu lại
bằng Vicryl 4.0 khâu túm.
Tràn khí dưới da 13 trường hợp, tự hết sau
24h.
Chuyển mổ hở
Có 4 bệnh nhân phải chuyển mổ hở do chảy
máu (0,97%).
Không có trường hợp nào sỏi chạy lên thận
hoặc không tìm thấy niệu quản.
Hậu phẫu
Thuốc giảm đau chỉ dùng 1 ngày sau mổ,
ngày thứ hai trở đi đau nhẹ, ngày thứ 4 đi lại gần
như bình thường.
Trung tiện ngày thứ 1 sau mổ.
Dẫn lưu khoang sau phúc mạc: Rút sau 2
ngày sau khi đã hết rỉ dịch. Có 1 trường hợp rút
sau 5 ngày khi đã hết xì nước tiểu.
Biến chứng nhiễm trùng: Chưa gặp phải biến
chứng nhiễm trùng nào.
Đái máu sau mổ: 1 trường hợp, điều trị nội
khoa tự hết sau 10 ngày.
Thời gian nằm viện: Trung bình là 4,5 ngày.
Sớm nhất 2,5 ngày.
Muộn nhất 11 ngày.
BÀN LUẬN
Trong những trường hợp mổ đầu tiên cho
nên vấn đề thời gian chúng tôi không đặt ra
nhiều lắm, mục đích chính là lấy sỏi an toàn, đảm
bảo đúng kỹ thuật, hạn chế tai biến trong mổ và
hậu phẫu. Càng về sau khi các kỹ năng đã thành
thục và cải tiến một số thì trong cuộc mổ nên thời
gian càng được rút ngắn nhiều.
Cách vào Trocar 10 đầu tiên được cải tiến đơn
giản hóa và an toàn khi xử dụng trocar đầu tù
nong qua vết rạch rồi đặt bóng nong rộng phẫu
trường sẽ giúp tiết kiệm được nhiều thời gian cho
cuộc mổ.
Số lượng Trocar được sử dụng là 3 Trocar
trong đó 2 Trocar 10mm và 1 Trocar 5mm(201
cas), 1 Trocar 10 và 2 Trocar 5(12 cas) cá biệt có 2
trường hợp phải sử dụng tới 4 Trocar để đưa dụng
cụ vào vén lên mới thao tác được.
Chúng tôi sử dụng ngón giữa của găng tay
vô trùng làm dụng cụ để bơm khí nong rộng
khoang sau phúc mạc với 300ml khí trời tạo
phẫu trường.
Hai mốc giải phẫu chính để tìm niệu quản đó
là cơ Thắt lưng chậu và Tĩnh mạch sinh dục, đối
với những phẫu thuật viên chưa thành thạo thì
đây là khâu tương đối quan trọng để quyết định
thành công của cuộc mổ. Trong nhóm nghiên
cứu của chúng tôi có hai trường hợp bóc tách
nhầm vào động mạch chủ bụng và chưa để lại tai
biến nào. Một điều quan trong nữa trong thì tìm
niệu quản là càng hạn chế chảy máu chừng nào
càng tốt (Cầm máu tỉ mỉ) thì sẽ càng thuận lợi
cho quá trình phẫu thuật, nhất là những trường
hợp thời gian mổ kéo dài.
Đoạn niệu quản chứa sỏi được bộc lộ và cố
định, chúng tôi tiến hành xẻ lạnh niệu quản với
lưỡi dao số 11 được đưa qua Trocar 10 với ống bảo
vệ trong những trường hợp đầu tiên, đa số các
trường hợp sau vì sử dụng với 2 Trocar 5 nên tiến
hành xẻ niệu quản bằng dụng cụ tự chế với đầu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 258
nhọn và chế độ cắt của dao điện đơn cực, về mặt
đại thể đã cho những kết quả khả quan.
Có 7 bệnh nhân được phẫu thuật vừa mở niệu
quản lấy sỏi vừa kết hợp mở nhu mô trên thận bị
ứ nước từ độ 2-3, sỏi nhỏ nằm co cụm trên một
nhóm đài. Sau khi đã phẫu tích vị trí sỏi niệu
quản thì để đó và chưa xẻ lấy ngay, bộc lộ lên
thận và tìm vị trí nhu mô mỏng nhất, dùng dao
điện xẻ nhu mô, đưa ống hút kèm optic vào quan
sát và gắp sỏi, đặt ống súc rửa các nhóm đài còn
lại rồi đóng nhu mô thận bằng catgut mũi vắt. Sỏi
niệu quản sẽ được lấy khi đã lấy xong sỏi nhu mô
để đảm bảo cho các viên sỏi trong nhu mô vẫn ở
vị trí ban đầu không bị xáo trộn khi thận xẹp vì
lấy sỏi niệu quản.
Chúng tôi không tiến hành đặt sonde JJ một
cách có hệ thống mà chỉ đặt trong những trường
hợp niệu quản bị hẹp dưới viên sỏi hoặc còn sót
sỏi trong các đài thận.
Tiến hành phục hồi sự lưu thông của niệu
quản bằng vicryl4.0 mũi rời hoặc khâu vắt.
Dẫn lưu được đưa vào qua lỗ Trocar 5, sau khi
kiểm tra ống dẫn lưu đã nằm đúng vị trí thì rút
các Trocar, khâu lại các lỗ Trocar bằng chỉ
Nylon 3.0.
Đối với các bệnh viện như chúng tôi, trang
thiết bị còn hạn chế đây là một phương pháp tỏ ra
rất ưu việt. Phương pháp này có thể thay thế cho
phẫu thuật mở truyền thống trong những trường
hợp sỏi niệu quản có chỉ định khi điều kiện các
phương pháp ít xâm lấn khác chưa thể thực hiện
được ở các bệnh viện như chúng tôi hiện nay.
Qua đó, chúng tôi sẽ triển khai thêm các phẫu
thuật khác như cắt chỏm nang thận, cắt thận teo
xơ, tạo hình khúc nối bể thận niệu quản.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật lấy sỏi niệu quản qua nội soi sau
phúc mạc tại bệnh viện Đa khoa Tỉnh Quảng trị
là một phẫu thuật an toàn, hiệu quả và dễ thực
hiện.
Phẫu thuật này có những lợi điểm là giảm
được nguy cơ tổn thương tạng và mạch máu,
hạn chế liệt ruột, không có ứ đọng nước tiểu
trong ổ bụng. Nhược điểm là phẫu trường hẹp
nên hạn chế thao tác, vùng da đặt Trocar cũng bị
hạn chế bởi xương sườn phía trên, mào chậu
phía dưới, khối cơ lưng phía sau, mép phúc mạc
ở phía trước. Đây là một phương pháp tỏ ra rất
ưu việt, tránh cho bệnh nhân phải chịu một cuộc
mổ mở với đường mổ kéo dài qua khối cơ lưng
gây hậu phẫu nặng nề, giảm cảm giác một cách
đáng kể bên dưới vết mổ do tổn thương các bó
mạch thần kinh. Phương pháp này có thể thay
thế cho phẫu thuật mở truyền thống trong
những trường hợp sỏi niệu quản có chỉ định và
khi điều kiện các phương pháp ít xâm lấn khác
chưa thể thực hiện được
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Trí Dũng (2003). Một số nhận xét về phẫu thuật mở niệu
quản lấy sỏi qua nội soi sau phúc mạc. Y học TP.HCM; tập 3(4):
tr.87-90.
2. Lê Đình Khánh, Phạm Như Hiệp, Dương Đăng Hỷ (2002). Phẫu
thuật nội soi qua đường sau phúc mạc điều trị sỏi niệu quản tại Bv
TƯ Huế. Y học TP.HCM. Tập 2: tr. 329-333
3. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Văn Hân,
Phạm Phú Phát, Đào Quang Oánh, Nguyễn Bá Minh Nhật (2004).
Nội soi sau phúc mạc vùng hông lưng trong mổ sỏi niệu quản
đoạn trên, kinh nghiệm ban đầu 36 trường hợp. Hội nghị nội soi
và phẫu thuật nội soi Đại Học Y Dược TP.HCM: tr.123-127.
4. Nguyễn Tế Kha, Trần Thượng Phong, Nguyễn Văn Ân và cs
(2005). Phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc trong bệnh lý sỏi niệu
quản: Kinh nghiệm điều trị 148 trường hợp tại Bệnh viện Bình
Dân. Y học TP.HCM. tập 2 (3): tr. 129-131
5. Nguyễn Đạo Thuấn, Nguyễn Văn Ân, Vĩnh Tuấn, Đỗ Anh Toàn,
Văn Thành Trung (2008). Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi
đài thận và niệu quản đoạn lưng, kinh nghiệm bước đầu qua 12
trường hợp. Tạp chí Y Học TPHCM. Tập 3 (1): tr. 97-102.