Đặt vấn đề: Sàn chậu học (Pelviperineology) là một chuyên khoa mới hợp nhất 3 chuyên khoa tiết
niệu, sinh dục và hậu môn trực tràng với mục đích điều trị bệnh của một chuyên khoa này nhưng không
làm xấu hơn bệnh của hai chuyên khoa lân cận. Chẩn đoán sa tạng chậu nữ nên dựa vào lý thuyết hợp nhất
(Integral theory) của sàn chậu học và phương tiện chẩn đoán hình ảnh Cộng hưởng từ động tống phân
(MRI Defecography). Về điều trị, ngoài điều trị bảo tồn và thủ thuật, phương pháp điều trị ngoại khoa hiện
nay là kết hợp nhiều phẫu thuật cùng lúc dựa trên quan điểm sàn chậu học. Trên thế giới, đã có nhiều công
trình nghiên cứu về sa tạng chậu nữ. Ở nước ta, rất ít đề tài nghiên cứu về vấn đề này.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định chỉ định phẫu thuật của phương pháp kết hợp đa phẫu thuật trong
điều trị sa tạng chậu nữ. Đánh giá kết quả bước đầu phương pháp kết hợp đa phẫu thuật trong điều trị sa
tạng chậu nữ.
Phương pháp: Tiêu chuẩn chọn bệnh: bệnh nhân nữ vào khoa Sàn chậu Bệnh viện Triều An với các
triệu chứng rối loạn tiểu đại tiện (tiểu són, táo bón.) và sa sinh dục. Xác định chẩn đoán bằng thăm khám
lâm sàng và cộng hưởng từ động tống phân. Đánh giá kết quả phẫu thuật dựa trên sự cải thiện triệu chứng
lâm sàng so sánh trước và sau mổ.
Kết quả: Từ 6-2010 đến 9-2011 (15 tháng), 65 bệnh nhân nữ từ 25 đến 87 tuổi (trung bình 53,42) bị
sa tạng chậu có triệu chứng được điều trị phẫu thuật. Rất ít biến chứng trong và sau mổ. Thời gian nằm
viện trung bình 9,37 ngày. Theo dõi 3 – 12 tháng, kết quả: tốt 89 %, trung bình 11 %.
Kết luận: Cộng hưởng từ động tống phân là phương tiện chẩn đoán chính xác các thương tổn vùng
chậu. Phương pháp kết hợp đa phẫu thuật theo quan điểm sàn chậu học trong điều trị sa tạng chậu nữ cho
kết quả tốt, ít biến chứng.
10 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả sớm phương pháp kết hợp đa phẫu thuật trong điều trị sa tạng chậu nữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 290
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM PHƯƠNG PHÁP KẾT HỢP ĐA PHẪU THUẬT
TRONG ĐIỀU TRỊ SA TẠNG CHẬU NỮ
Nguyễn Trung Vinh*, Lê Văn Cường **
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sàn chậu học (Pelviperineology) là một chuyên khoa mới hợp nhất 3 chuyên khoa tiết
niệu, sinh dục và hậu môn trực tràng với mục đích điều trị bệnh của một chuyên khoa này nhưng không
làm xấu hơn bệnh của hai chuyên khoa lân cận. Chẩn đoán sa tạng chậu nữ nên dựa vào lý thuyết hợp nhất
(Integral theory) của sàn chậu học và phương tiện chẩn đoán hình ảnh Cộng hưởng từ động tống phân
(MRI Defecography). Về điều trị, ngoài điều trị bảo tồn và thủ thuật, phương pháp điều trị ngoại khoa hiện
nay là kết hợp nhiều phẫu thuật cùng lúc dựa trên quan điểm sàn chậu học. Trên thế giới, đã có nhiều công
trình nghiên cứu về sa tạng chậu nữ. Ở nước ta, rất ít đề tài nghiên cứu về vấn đề này.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định chỉ định phẫu thuật của phương pháp kết hợp đa phẫu thuật trong
điều trị sa tạng chậu nữ. Đánh giá kết quả bước đầu phương pháp kết hợp đa phẫu thuật trong điều trị sa
tạng chậu nữ.
Phương pháp: Tiêu chuẩn chọn bệnh: bệnh nhân nữ vào khoa Sàn chậu Bệnh viện Triều An với các
triệu chứng rối loạn tiểu đại tiện (tiểu són, táo bón...) và sa sinh dục. Xác định chẩn đoán bằng thăm khám
lâm sàng và cộng hưởng từ động tống phân. Đánh giá kết quả phẫu thuật dựa trên sự cải thiện triệu chứng
lâm sàng so sánh trước và sau mổ.
Kết quả: Từ 6-2010 đến 9-2011 (15 tháng), 65 bệnh nhân nữ từ 25 đến 87 tuổi (trung bình 53,42) bị
sa tạng chậu có triệu chứng được điều trị phẫu thuật. Rất ít biến chứng trong và sau mổ. Thời gian nằm
viện trung bình 9,37 ngày. Theo dõi 3 – 12 tháng, kết quả: tốt 89 %, trung bình 11 %.
Kết luận: Cộng hưởng từ động tống phân là phương tiện chẩn đoán chính xác các thương tổn vùng
chậu. Phương pháp kết hợp đa phẫu thuật theo quan điểm sàn chậu học trong điều trị sa tạng chậu nữ cho
kết quả tốt, ít biến chứng.
Từ khoá: sa tạng chậu, hội chứng sa sàn chậu, sa bản nâng, sàn chậu học, cộng hưởng từ động tống
phân.
ABSTRACT
EARLY ASSESSEMENT OF CONCOMITANT PROCEDURES IN THE TREATMENT OF FEMALE
PELVIC ORGAN PROLAPSE
Nguyen Trung Vinh, Le Van Cuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 290 - 299
Introduction: Pelviperineology is a new speciality including urology, gynecology and coloproctology.
Diagnosis and treatment of Pelvic Organ Prolapse (POP) must not be seperated and follow the integral
theory of pelviperineology and MRI defecography.
Methods: Female patients committing to Pelviperineology Department – Trieu An Hospital with
symtoms of POP and urinary and evacuated dysfunction. Diagnosis was determined by physical
* Khoa Sàn chậu Niệu BV. Triều An TP. HCM.
** Bộ môn Giải phẫu học, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Trung Vinh ĐT: 0913939625 Email: ts.vinh@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 291
examination and MRI defecography. Assess the post-op results of concomitant procedures.
Results: From June 2010 to Sept. 2011 (15 months), 65 female patients aging from 25 to 87, with
symptomatic POP were treated by concomitant procedures. Less intra and post operation complications.
Good results with 89 % excellent outcomes.
Conclusion: MRI Defecography is a reliable instrument for diagnosis of perineologic defects.
Concomitant procedures in the treatment of female Pelvic Organ Prolapse is an efficient technique with less
complications.
Keywords: Pelvic Organ Prolapse, Descending Perineum syndrome, Levator plate sagging,
Pelviperineology, MRI Defecography.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sàn chậu học (Pelviperineology), một
chuyên khoa mới hợp nhất 3 chuyên khoa tiết
niệu, sinh dục và hậu môn trực tràng với mục
đích điều trị bệnh của một chuyên khoa này
nhưng không làm xấu hơn bệnh của hai
chuyên khoa lân cận. Sa tạng chậu nữ gồm sa
thành trước âm đạo (bọng đái niệu đạo), sa
sinh dục (tử cung, vòm âm đạo) và sa thành
sau âm đạo (ruột non, túi sa trực tràng). Thực
tế khám lâm sàng các bệnh nhân sa sàn chậu
cho thấy: rối loạn tiểu đại tiện (són tiểu, tiểu
gấp, táo bón,) luôn xảy ra đồng thời với sa
sinh dục và ngược lại. Vì vậy để chẩn đoán sa
tạng chậu nữ, hiện nay hợp lý nhất là dựa vào
lý thuyết hợp nhất (Integral theory) của sàn
chậu học và phương tiện chẩn đoán hình ảnh
cộng hưởng từ động tống phân (MRI
Defecography). Về điều trị, ngoài điều trị bảo
tồn và thủ thuật, phương pháp điều trị ngoại
khoa hiện nay là kết hợp nhiều phẫu thuật
cùng lúc dựa trên quan điểm sàn chậu học:
mô phỏng và thay thế đúng các cấu trúc giải
phẫu bị tổn thương. Trên thế giới, đã có nhiều
công trình nghiên cứu về sa tạng chậu nữ. Ở
nước ta, rất ít đề tài nghiên cứu về vấn đề này.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định chỉ định phẫu thuật của phương
pháp kết hợp đa phẫu thuật trong điều trị sa
tạng chậu nữ. Đánh giá kết quả bước đầu của
phương pháp kết hợp đa phẫu thuật trong
điều trị bệnh lý sa tạng sàn chậu ở người bệnh
nữ Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả cắt
ngang. Thời gian NC: từ 6/ 2010 - 9/ 2011 (15
tháng). Tiêu chuẩn chọn bệnh: BN nữ được
chẩn đoán hội chứng sa sàn chậu dựa trên
lâm sàng và cộng hưởng từ động tống phân
(MRI Defecography). Chỉ định phẫu thuật: Sa
bản nâng > độ II + sa tạng chậu có triệu chứng
(rối loạn tiểu đại tiện + sa sinh dục > độ I).
Phương pháp phẫu thuật: kết hợp nhiều phẫu
thuật cùng lúc để điều trị sa các tạng chậu. Vô
cảm: tê tủy cùng + tê ngoài màng cứng (giảm
đau hậu phẫu). Phục hồi bản cơ nâng qua ngõ
sau hậu môn (Retroanal Levator Plate
Myorraphy - RLPM)
Các phẫu thuật phục hồi sa tạng chậu qua
ngõ âm đạo: bóc tách mô dưới niêm thành
trước và sau âm đạo bằng dung dịch nước
muối sinh lý + pha Adrenaline 1/200.000.
Phẫu thuật phục hồi thành trước âm đạo
(Anterior vaginal wall repairs): có / không đặt
mảnh ghép điều trị sa bọng đái niệu đạo
(Urethrocele, Cystocele, Urthrocystocele).
Phẫu thuật phục hồi phức hợp dây chằng
chính tử cung cùng (Cardinal uterosacral
ligaments repairs): điều trị sa sinh dục và túi
sa trực tràng cao: sa ruột non (Enterocele), sa
đại tràng sigma (Sigmoidocele), sa mỡ phúc
mạc (Peritoneocele).
Phẫu thuật phục hồi thành sau âm đạo:
khâu gấp nếp đường giữa (Porterior midline
plication colporrhaphy) hoặc phục hồi đúng
vị trí tổn thương (Site specific defects repairs)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 292
điều trị túi sa trực tràng giữa, thấp (Rectocele)
+ sa nhão thể sàn chậu (Perineocele).
Các phẫu thuật phục hồi sa tạng chậu qua
ngõ hậu môn:
Phẫu thuật phục hồi ống cơ nâng hậu
môn: phẫu thuật khâu treo (Rectoanal
mucosal plication) điều trị lồng trong
(Internal rectoanal intussusception), trĩ, sa
niêm ngoài hậu môn.
Biến chứng sớm: mức độ đau, bí tiểu, đại
tiện lần đầu, chảy máu, nhiễm khuẩn. Biến
chứng muộn: di chứng, đánh giá sự cải thiện
các triệu chứng lâm sàng, tỷ lệ tái phát. Theo
dõi sau mổ qua điện thọai, thơ hồi đáp, khám
định kỳ 1, 3, 6, 12 tháng. Đánh giá mức độ hài
lòng của bệnh nhân: tốt, trung bình, kém
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Trong thời gian 15 tháng từ tháng 6-2010
đến tháng 9-2011, đối tượng nghiên cứu gồm
65 nữ nằm viện với chẩn đoán là hội chứng sa
sàn chậu (sa tạng chậu có triệu chứng).
Yếu tố thuận lợi
Một thống kê gần đây ở Mỹ cho thấy 50%
phụ nữ đã sinh đẻ theo đường tự nhiên bị sa
tạng chậu trong đó nếu sinh 1 lần có tỷ lệ mổ
sa tạng chậu gấp 4 lần và gấp 8,4 lần nếu sinh
2 con trở lên(7). Trong lô nghiên cứu của
chúng tôi, có 3 TH nữ chưa sanh đẻ, 7 TH sinh
1 lần và 55/65TH (84,6%) sinh từ >2 lần theo
đường âm đạo. Điều này cho thấy ở nữ càng
sinh nhiều theo đường tự nhiên càng dễ mắc
hội chứng sa sàn chậu. Tác động của yếu tố
rặn gắng sức kéo dài khi sanh đẻ hoặc táo bón
sẽ gây chấn thương trực tiếp lên các cấu trúc
nâng đỡ sàn chậu, hậu quả là sa tạng chậu
dẫn đến rối loạn chức năng sàn chậu chắc
chắn xảy ra(16). Táo bón: theo A. Lembo (2003)
táo bón chia làm 2 loại(6). Táo bón chức năng,
đại tràng co bóp bình thường chiếm 59%, điều
trị đáp ứng tốt với nội khoa như thuốc nhuận
trường và thực phẩm nhiều chất xơ. Loại thứ
hai là táo bón cơ học (41%) bao gồm đại tràng
chậm co bóp (Colonic inertia) chiếm 13%, bế
tắc đường ra (Outlet obstruction) chiếm 25%
và kết hợp cả hai chiếm 3%. Táo bón cơ học
cần điều trị bằng vật lý trị liệu (bài tập
Kegel), thủ thuật (kích điện, phản hồi sinh
học) và phẫu thuật. Trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài, 100% BN bị táo bón là loại táo
bón cơ học do bế tắc đường ra, được chẩn
đoán lâm sàng theo tiêu chuẩn ROME II và
chẩn đoán hình ảnh trên cộng hưởng từ động
tống phân (MRI Defecography).
Tổn thương các cấu trúc nâng đỡ và treo
giữ 3 tạng chậu
Sa bản và ống cơ nâng hậu môn: bình
thường, bản nâng (Levator Plate) và khe nâng
(Levator Hiatus) có tác dụng khép chặt các
trục của tạng chậu (niệu đạo, âm đạo, ống hậu
môn) và góp phần tạo nên góc sinh lý cho 3
tạng chậu. Ngoài ra, bản cơ nâng còn là điểm
tựa ngồi lên của cả 3 tạng chậu (bọng đái, tử
cung, trực tràng) có tác dụng nâng đỡ giúp
chúng luôn nằm trên đường mu cụt
(Pubococcygeal Line - PCL) kể cả lúc rặn.
Bản cơ nâng HM
Túi thoát vị
Phúc mạc chậu
Thể sàn chậu
Bản cơ nâng HM bình thường Sa bản cơ nâng HM
Áp suất nội bụng
Áp suất nội bụng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 293
Như trên đã đề cập, tác động của yếu tố
rặn gắng sức kéo dài khi sanh đẻ hoặc táo bón
mạn tính sẽ chấn thương trực tiếp lên các cấu
trúc nâng đỡ các tạng chậu, đặc biệt là với
đường nối giữa của bản cơ nâng hậu môn làm
bản và khe cơ nâng bị toác rộng, kế đến là tổn
thương mạc nội chậu và các dây chằng treo
giữ các tạng chậu, hậu quả dẫn đến sự sa
nhão không tránh khỏi của cả 3 tạng chậu(2).
Ngoài ra ở vùng sàn chậu sau, ống cơ nâng
hậu môn cho đến nay vẫn là một cấu trúc giải
phẫu chưa được hiểu biết tường tận. Theo các
nghiên cứu công bố trước đây(9, 10, 11), chúng tôi
đã giả thiết rằng bó dọc giữa của ống hậu
môn trực tràng (HMTT) là thành phần chính
của cấu trúc này, có nguyên ủy là bờ tự do
của khe cơ nâng hậu môn và bám tận là các
dây chằng treo trĩ (dây chằng Parks). Suy yếu
các điểm bám tận này sẽ tạo nên các bệnh
thường gặp ở vùng hậu môn như trĩ (kèm
thêm yếu tố sa dãn đám rối tĩnh mạch trĩ), sa
niêm trong HMTT (lồng trong), sa niêm ngoài
hậu môn. Để điều trị các thương tổn này khi
có chỉ định, chúng tôi sử dụng phẫu thuật
khâu treo để phục hồi phần bám tận và phẫu
thuật khâu bản nâng để phục hồi phần
nguyên uỷ của bó dọc giữa ống HMTT (điều
trị sa trực tràng, trĩ vòng nặng).
Tổn thương mạc nội chậu (Endopelvic
fascia) và các dây chằng sàn chậu (Perineal
ligaments): các cấu trúc nâng đỡ của vùng
chậu được De Lancey (1993) ví như hình ảnh
cái lều và phân làm 3 mức độ(5). Đỉnh lều (De
Lancey I) cố định: còn gọi là vùng đỉnh
(Apical compartment) ở ngang mức vòng cổ
tử cung (Cervical ring), là nơi bám tận (ở vị trí
5 và 7 giờ của vòng cổ) của phức hợp dây
chằng chính tử cung cùng (Cardinal
uterosacral ligaments), nếu bị tổn thương sẽ
dẫn đến sa sinh dục (tử cung và vòm âm đạo).
Thành lều (De Lancey II) là phần nằm ngang,
di động của âm đạo: thành trước âm đạo bao
gồm dây chằng mu niệu đạo (Pubourethral
ligament) và mạc mu cổ (Pubocervical fascia),
khi bị tổn thương sẽ dẫn đến rối loạn tiểu tiện
do sa niệu đạo (Urethrocele) gây són tiểu
(stress incontinence) và sa bọng đái
(Cystocele) gây tiểu gấp (urgency
incontinence), nếu sa cả hai (Urethrocystocele)
bệnh nhân sẽ mắc rối loạn tiểu thể hỗn hợp
(mixed incontinence). Thành sau âm đạo bao
gồm vách trực tràng âm đạo (Rectovaginal
septum), gọi là vách là vì ngoài lớp mạc trực
tràng âm đạo (mạc Denonvillier) lớp này còn
có thêm lớp cơ âm đạo(20). Vách có 3 vị trí có
thể bị tổn thương:
Nguyên ủy của vách trực tràng âm đạo
bám vào mặt sau vòng xơ cổ tử cung, nếu bị
tổn thương túi cùng Douglas bị toác rộng dẫn
đến túi sa trực tràng cao (High rectocele) bao
gồm sa ruột non (Enterocele) hoặc sa đại tràng
chậu hông (Sigmoidocele) hoặc sa mỡ phúc
mạc (Peritoneocele).
Vị trí đường giữa và 2 bên của vách trực
tràng âm đạo, khi bị tổn thương sẽ dẫn đến
túi sa trực tràng giữa (Mid rectocele).
Vị trí bám tận vào thể sàn chậu (Perineal
body), nếu bị rách đứt sẽ dẫn đến túi sa trực
tràng thấp (Low rectocele) thường kèm theo
sa nhão thể sàn chậu.
Chân lều (De Lancey III) là phần đứng
thẳng, cố định của âm đạo: phía trước là võng
âm đạo (Vaginal hammock) hoà dính chặt chẽ
với đoạn niệu đạo xa, phía sau là thể sàn
chậu. Thể sàn chậu nếu bị sa nhão, nhất là khi
kết hợp với túi sa trực tràng thấp là nguyên
nhân thường gặp nhất của táo bón mạn tính
do hội chứng bế tắc đường ra. Trong trường
hợp này, cần kết hợp phẫu thuật phục hồi
thành sau âm đạo (sửa chữa rectocele) và tái
tạo thể sàn chậu cùng lúc thì điều trị táo bón
mới có hiệu quả lâu dài.
Tổn thương trục treo của sàn chậu: vùng
đỉnh và thành sau âm đạo còn gọi là trục trên
sau (Superoapical axis) hay trục treo
(Suspensory axis) bao gồm phức hợp dây
chằng chính tử cung cùng, vòng cổ tử cung,
vách trực tràng âm đạo và thể sàn chậu. Trục
treo là phương tiện treo nâng chính của sàn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 294
chậu(19), khi bị tổn thương sẽ dẫn đến rối loạn
chức năng sàn chậu hay hội chứng sa sàn
chậu. Cơ chế sa tạng chậu nữ dẫn đến rối loạn
chức năng sàn chậu được tóm tắt qua sơ đồ
sau:
SA BẢN CƠ NÂNG HẬU MÔN
DeLancey I TRỤC TREO
D/C CHÍNH TỬ CUNG CÙNG
VÒNG CỔ TỬ CUNG
DeLancey II
THÀNH TRƯỚC ÂM ĐẠO THÀNH SAU ÂM ĐẠO ỐNG CƠ NÂNG HẬU MÔN
D/C MU NIỆU ĐẠO VÁCH TRỰC TRÀNG ÂM ĐẠO BÓ DỌC KẾT HỢP
MẠC MU CỔ THỂ SÀN CHẬU
Sa Niệu đạo Sa Tử Cung Lồng TTHM
Sa Bọng đái Sa Ruột non(cao) Trĩ vòng
Sa Bọng đái niệu đạo Túi sa trực tràng Sa niêm nậu môn
RỐI LOẠN CHỨC NĂNG SÀN CHẬU
Do đó, nguyên tắc của phẫu thuật phục
hồi sự sa nhão các tạng chậu và sa sàn chậu có
thể tóm lược như sau: ở giai đoạn đầu, khi
mới có bản cơ nâng hậu môn bị tổn thương,
các tạng chậu chỉ bị sa mức độ nhẹ thì phẫu
thuật phục hồi bản nâng có kết quả nhất định.
Giai đoạn trễ, mạc nội chậu và các dây chằng
đã bị tổn thương, rối loạn tiểu đại tiện và sa
sinh dục đã ở mức độ nặng hơn thì kết hợp đa
phẫu thuật nhằm phục hồi (bằng chính mô tại
chỗ) hoặc thay thế các cấu trúc giải phẫu
(bằng mảnh ghép tổng hợp) đúng với các vị
trí tổn thương là cần thiết(15).
Chẩn đoán
Lâm sàng: từ trước đến nay, các chuyên
khoa tiết niệu (Urology), phụ khoa
(Gynecology) và hậu môn trực tràng
(Proctology) theo hướng phát triển ba chuyên
khoa riêng biệt. Gần đây, một chuyên khoa
mới ra đời với lý thuyết hợp nhất (Integral
theory) kết hợp cả ba chuyên khoa nói trên,
đó là chuyên khoa Sàn chậu học
(Pelviperineology). Theo chuyên khoa mới
này, việc thăm khám lâm sàng phải đánh giá
cùng lúc cả 3 trục tạng chậu (Three Axis
Perineal Evaluation)(3), với mục đích điều trị
một chuyên khoa này sẽ không gây ảnh
hưởng xấu đến chuyên khoa khác(3,16,15). Thực
tế thăm khám lâm sàng các bệnh nhân sa sàn
chậu cho thấy ít khi nào chỉ sa một tạng mà
thường gặp rối loạn tiểu tiện (són tiểu, tiểu
gấp,) và rối loạn đại tiện (táo bón,) luôn
xảy ra đồng thời với sa sinh dục và ngược lại.
Trong lô nghiên cứu này với 65 BN được
phân loại như sau: 24 trường hợp (TH) (37%)
rối loạn tiểu tiện: tiểu không kiểm soát khi
gắng sức (Són tiểu): 4 TH, tiểu gấp: 8 TH, rối
loạn tiểu thể hỗn hợp: 12 TH. 65 TH (100%) rối
loạn đại tiện: đại tiện khó hoặc táo bón. 7 TH
(10,7%) có cảm giác đau thốn khi giao hợp
(Dyspareunia), 5 TH sa tử cung độ II. Tất cả
65 BN đều có >2 triệu chứng kéo dài quá 12
tuần, được chẩn đoán theo tiêu chuẩn ROME
II:
Rối loạn đại tiện Số BN
Cảm giác đại tiện tắc nghẽn 65/65
Đại tiện không hết phân 65/65
Mót rặn 60/65
Đau tức hậu môn 65/65
Phân cục lổn nhổn 58/65
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 295
Rối loạn đại tiện Số BN
Đại tiện < 3 lần / tuần 59/65
Hỗ trợ đại tiện (tay, thuốc, tụt tháo) 65/65
Cộng hưởng từ động tống phân: Cả 65 BN
đều được chẩn đoán hình ảnh bằng cộng
hưởng từ động tống phân. Đây là một
phương tiện chẩn đoán hình ảnh hiện đại, là
sự lựa chọn hàng đầu cho kết quả chính xác
và đầy đủ, chẩn đoán tổng hợp các bệnh lý sa
sàn chậu(4,5). Trong lô nghiên cứu này, kết quả
chẩn đoán hình ảnh dựa trên các phim cộng
hưởng từ động như sau:
Sa bản cơ nâng hậu môn (Levator Plate
Sagging - LPS): 10 TH > độ I (M > 2-4 cm), 55
TH > độ II (M > 4 cm).
Sa thành trước âm đạo: sa bọng đái niệu
đạo độ I: 12 TH, độ II: 8 TH; sa cổ bọng đái: 4
TH.
Sa Tử cung (Hysterocele): 40 TH độ I và 5
TH độ II.
Sa vách trực tràng âm đạo: sa ruột non
(Enterocele) 5 TH, sa đại tràng chậu hông
(Sigmoidocele) 2 TH, sa mỡ phúc mạc
(Peritoneocele) 13 TH, túi Sa trực tràng
(Rectocele) 58 TH trong đó 8 TH độ I, 40 TH
độ II, 10 TH độ III.
Trĩ vòng / búi độ III + Lồng trong TTHM
(Internal intussusception): 29 TH.
Co thắt cơ Mu trực tràng nghịch lý
(Anismus): 4 TH.
Nhược điểm lớn nhất của kỹ thuật này là
chi phí đắt nên ít BN đồng ý chụp lại kiểm tra
sau mổ (trong lô bệnh này, chỉ có 18/65 BN
chụp lại). Từ kết quả chẩn đoán hình ảnh này
và phối hợp với kết quả chẩn đoán lâm sàng,
chúng tôi áp dụng phương pháp kết hợp đa
phẫu thuật (thường từ 2 - 4 phẫu thuật) để
điều trị cho từng trường hợp bệnh nhân cụ
thể dựa trên nguyên tắc mô phỏng và thay thế
đúng vị trí các cấu trúc giải phẫu bị tổn
thương: thành trước (mạc mu cổ, dây chằng
mu niệu đạo), vùng đỉnh (bản nâng hậu môn
hoặc dây chằng chính tử cung cùng), vách
trực tràng âm đạo (tại nguyên ủy: vòng cổ tử
cung / bám tận: thể sàn chậu).
Phương pháp phẫu thuật
Hiện nay trên thế giới, khuynh hướng
phân chia bệnh của vùng sàn chậu trước
thuộc chuyên khoa niệu dục (Urogynecology)
và bệnh sàn chậu sau thuộc chuyên khoa hậu
môn trực tràng (Proctology) vẫn còn tồn tại,
vì vậy một số phương pháp phẫu thuật trước
đây chỉ nhằm điều trị từng chứng bệnh riêng
lẻ của từng cơ quan chứ không điều trị tổng
hợp các bệnh vùng chậu cùng lúc theo như lý
thuyết hợp nhất của sàn chậu học. Parks
(1966)(14) mô tả chi tiết về hội chứng sa sàn
chậu và đề ra phẫu thuật sửa chữa qua ngõ
sau hậu môn (Post-anal repair) mà nhiều tác
giả đã áp dụng để điều trị rối loạn đại tiện vô
căn. Nichols (1982)(12): phẫu thuật tạo hình cơ
nâng qua ngõ sau trực tràng (Retro-rectal
levatorplasty) để điều trị sa bản nâng và táo
bón nặng. Shafik (1987)(17): phẫu thuật tạo
hình cơ nâng (Levatorplasty) trong điều trị sa
toàn bộ trực tràng. Shafik (1997)(18): phẫu thuật
khâu gấp nếp niêm mạc điều trị sa trực tràng
bán phần. Gần đây J. Beco (2008)(2) báo cáo
phẫu thuật phục hồi bản cơ nâng qua ngõ sau
hậu môn (Retro-anal levator plate
myorrhaphy - RLPM), tác giả cho rằng phẫu
thuật này có thể điều trị cùng lúc sa cả 3 tạng
chậu và coi đây là chìa khóa của ngành Sàn
chậu học.
Tuy nhiên, sa bản nâng chỉ là tổn thương
ở giai đoạn đầu (M > độ I), các triệu chứng rối
loạn tiểu đại tiện chỉ ở mức độ nhẹ, lúc đó
phẫu thuật phục hồi bản cơ nâng hậu môn
còn có tác dụng(10). Ở giai đoạn sau (M > độ II)
thường thì trục treo sàn chậu trong đó các dây
chằng và mạc nội chậu ít nhiều đếu bị sa
nhão, cần phải phụ