Một số nhận xét về cố ý tự đầu độc nhập cấp cứu Bệnh viện Nguyễn Tri Phương

Mục tiêu: Đánh giá tình hình tự đầu độc nhập cấp cứu BV Nguyễn Tri Phương từ tháng 10/2012 đến tháng 06/2012, mô tả các yếu tố liên quan đến nguyên nhân tự tử Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả hàng loạt ca. Kết quả: Gồm 75 trường hợp, Qua một số nhận xét tình hình BN cố ý tự đầu độc nhập khoa cấp cứu BV Nguyễn Tri Phương từ tháng 10/2011 đến tháng 6/2012: Về đặc điểm dân số học: Tuổi, giới, nghề nghiệp, nơi cư trú, trình độ học vấn có liên quan đến nguyên nhân tự tử. Các yếu tố liên quan trước khi nhập viện: Giờ trong ngày, tuần trong tháng, mùa trong năm có liên quan mật thiết đến nguyên nhân tự tử.Phương thức đầu độc: Uống nhiều loại thuốc là phương thức phổ biến của BN nhập cấp cứu BV Nguyễn Tri Phương. Kết luận: Tuổi, giới, nghề nghiệp, nơi cư trú, trình độ học vấn có liên quan đến nguyên nhân tự tử. Các yếu tố liên quan trước khi nhập viện: Giờ trong ngày, tuần trong tháng, mùa trong năm có liên quan mật thiết đến nguyên nhân tự tử. Phương thức đầu độc: Uống nhiều loại thuốc để tự đầu độc là phương thức phổ biến.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 196 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nhận xét về cố ý tự đầu độc nhập cấp cứu Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 84 MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CỐ Ý TỰ ĐẦU ĐỘC NHẬP CẤP CỨU   BV. NGUYỄN TRI PHƯƠNG   Trần Lâm Phương*, Kim Văn Trung*, Phan Văn Ngọc*  TÓM TẮT  Mục  tiêu: Đánh giá tình hình tự đầu độc nhập cấp cứu BV Nguyễn Tri Phương từ tháng 10/2012 đến  tháng 06/2012, mô tả các yếu tố liên quan đến nguyên nhân tự tử  Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả hàng loạt ca.  Kết quả: Gồm 75 trường hợp, Qua một số nhận xét tình hình BN cố ý tự đầu độc nhập khoa cấp cứu BV  Nguyễn Tri Phương từ tháng 10/2011 đến tháng 6/2012: Về đặc điểm dân số học: Tuổi, giới, nghề nghiệp, nơi  cư trú, trình độ học vấn có liên quan đến nguyên nhân tự tử. Các yếu tố liên quan trước khi nhập viện: Giờ  trong ngày, tuần trong tháng, mùa trong năm có liên quan mật thiết đến nguyên nhân tự tử.Phương thức đầu  độc: Uống nhiều loại thuốc là phương thức phổ biến của BN nhập cấp cứu BV Nguyễn Tri Phương.  Kết luận: Tuổi, giới, nghề nghiệp, nơi cư trú, trình độ học vấn có liên quan đến nguyên nhân tự tử. Các  yếu tố liên quan trước khi nhập viện: Giờ trong ngày, tuần trong tháng, mùa trong năm có liên quan mật thiết  đến nguyên nhân tự tử. Phương thức đầu độc: Uống nhiều loại thuốc để tự đầu độc là phương thức phổ biến.  Từ khóa: tự tử, cấp cứu, thuốc, thuốc trừ sâu  ABSTRACT  SOME COMMENTS ON SUICIDE PATIENTS ENTRY MERGENCY NGUYEN TRI PHUONG  HOSPITAL  Tran Lam Phuong, Kim Van Trung, Phan Van Ngoc  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2012: 84 - 90  Objective: Assessment of self‐ poisoning emergency import Nguyen Tri Phuong Hospital from 10/ 2012 to  06 / 2012, describes the factors related to the causes of suicide  Methods: The prospective study, described a case series.  Results: Consists of 75 cases from some of the comments suicide patients enter the emergency department  Nguyen  Tri  Phuong Hospital  from  10/  2011  to  6  /  2012: Regarding  demographic  characteristics:  age,  sex,  occupation, residence, education level related to the causes of suicide. The relevant factors before admission: Time  of day, week, month, season of the year is closely related to the causes of suicide. Means of suicide: Drink plenty of  drugs is a common method of emergency patients admitted Nguyen Tri Phuong Hospital.  Conclusion: Age, gender, occupation, place of residence, education level related to the causes of suicide. The  relevant factors before admission: Time of day, week, month, season of the year is closely related to the causes of  suicide. Means of suicide: Drink plenty of drugs to commit suicide are common.  Keywords: suicide, emergency, medicine, pesticide  ĐẶT VẤN ĐỀ  Tự sát là nguyên nhân gây chết người đứng  thứ 10 trên toàn thế giới. Số lượng lớn các vụ tự  sát  tập  trung ở châu Á, chiếm  tới khoảng 60%.  Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì ở các vụ  tự sát ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản chiếm  *Bệnh viện Nguyễn Tri Phương  Tác giả liên lạc: BS. Kim Văn Trung   ĐT: 0908105418   Email: drtrung42@yahoo.com.vn  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương  85 khoảng 40% tổng số các vụ tự sát trên thế giới.  Những  con  số  trên  đang  làm  đau  đầu  những  nhà  chính  sách  và  được  coi  đây  là một  trong  những căn bệnh nguy hiểm của thế kỷ XXI.  Tự  tử  là một  vấn  đề  sức  khoẻ  cộng  đồng  nghiêm  trọng. Theo  báo  cáo WHO,  hàng  năm  trên thế giới có khoảng 1 triệu người chết vì tự  tử, nghĩa  là khoảng 3.000 người chết mỗi ngày.  Tỷ lệ các bạn trẻ từng nghĩ đến chuyện tự tử và  từng  tìm cách kết  thúc cuộc  sống của mình  đã  tăng cao hơn gấp đôi so với 5 năm trước (Theo  cuộc điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh  niên lần thứ 2, năm 2010). Tính đến nay, số vụ tự  tử đã tăng gấp 60% so với 50 năm qua và dự báo  đến năm 2020,  con  số người  chết vì  tự  tử  trên  toàn  cầu  sẽ  tăng  thành  1,5  triệu mỗi  năm, đặc  biệt  ở  các nước  đang phát  triển.  Điều  đáng  lo  ngại là độ tuổi có hành vi tự tử đang bị trẻ hoá,  tập  trung  chủ  yếu  vào  lứa  tuổi  15‐25  tuổi. Tại  Việt Nam, số lượng người có ý nghĩ tự tử chiếm  khoảng 8,9% dân số (theo nghiên cứu của bác sĩ  Trần  Thị  Thanh Hương  và  các  đồng  sự).  Các  nhóm nghiên cứu về vấn đề khủng hoảng tâm lý  dẫn đến tự tử gần đây còn cảnh báo hiện tượng  tự  tử  tập  thể  tại  Việt  Nam  ngày  càng  gia  tăng.  Hiện  tại,  trung  tâm Phòng chống Khủng  hoảng Tâm lý (PCP) ‐ một tổ chức phi chính phủ  Việt Nam ra đời năm 2009 cũng đang có những  hỗ trợ tốt nhất cho các cá nhân trong cộng đồng  vượt qua khủng hoảng  tâm  lý và phòng chống  tự tử. Theo PCP, nguyên nhân của hàng chục vụ  nữ sinh tự tử tập thể dồn dập từ đầu năm 2012  đến nay gây những hậu quả đau lòng có nhiều  yếu tố cộng hưởng nhưng quan trọng nhất là sự  “lạnh lẽo của tình yêu thương”. PCP cũng cảnh  báo các yếu tố nguy cơ dẫn đến tự tử bao gồm:  Rối  loạn  tâm  thần,  lạm dụng  chất gây nghiện,  hút  thuốc  lá, nghiện cờ bạc, yếu  tố sinh học và  yếu  tố xã hội... Xuất phát  từ nhu cầu  thực  tiển  trên chúng tôi tiến hành nhận xét bệnh nhân cố  ý tự đầu độc nhập cấp cứu Nguyễn Tri Phương  từ tháng 10/2011 đến tháng 6/2012.  Mục tiêu nghiên cứu  Đánh giá tình hình tự đầu độc nhập cấp cứu  BV Nguyễn  Tri  Phương  từ  tháng  10/2012  đến  tháng 06/2012, mô  tả  các yếu  tố  liên quan  đến  nguyên nhân tự tử.   ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Dân số mục tiêu  Tất cả BN được chẩn đoán cố ý  tự đầu độc  nhập cấp cứu BV Nguyễn Tri Phương.  Phương pháp chọn mẫu  Chọn mẫu không xác suất.  Tiêu chuẩn chọn bệnh  Tất cả BN được chẩn đoán xác định là tự đầu  độc dựa vào:  ‐ Có cố ý tự đầu độc.  ‐ Có  lâm  sàng và  cận  lâm  sàng  chẩn  đoán  ngộ độc rõ.  Tiêu chuẩn loại trừ  Chưa có chẩn đoán rõ ràng.  Phương pháp nghiên cứu  Thiết kế nghiên cứu  Nghiên cứu tiền cứu, mô tả hàng loạt ca.  Thu thập dữ liệu  ‐ Trực tiếp thu thập số liệu từ BN cố ý tự đầu  độc thỏa các tiêu chuẩn chọn bệnh và tiêu chuẩn  loại trừ nêu trên.  Phương pháp xử lý số liệu  Xử  lý số  liệu bằng phần mềm  thống kê Epi  Stada.  Bước  đầu  tiên  là  tính  tần  suất  cho  các biến  định tính hay trị số trung bình cho các biến định  lượng.  Sau  đó  dùng  phép  kiểm  chi  bình  phương  (2) và phép kiểm T (t‐test) để tìm liên quan giữa  các  biến  số  này  với  nguyên  nhân  cố  ý  tự  đầu  độc.  Nếu có 20% số ô trong bảng có giá trị mong  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 86 đợi <5 thì dùng kiểm định chính xác Fisher.  KẾT QUẢ  Đặc điểm dân số học của mẫu nghiên cứu  Bảng 1. Đặc điểm dân số học của mẫu nghiên cứu  (n= 75)  Đặc tính dân số học Tần số Tỷ lệ (%) Tuổi: 15-19 9 12 20-24 26 34,7 25-44 34 45,3 45-64 5 6,7 >64 1 1,3 Giới tính: Nam 16 21,3 Nữ 59 78,7 Nơi cư trú: Khu vực thành thị 39 53,4 Khu vực nông thôn 14 19,2 Tỉnh khác 20 27,4 Nghề nghiệp: Sinh viên 13 17,3 Học sinh 5 6,7 Cán bộ công chức 2 2,7 Dịch vụ 8 10,6 Buôn bán 17 22,7 Làm nông 4 5,3 Công nhân 8 10,7 Thất nghiệp 18 24 Trình độ học vấn: Mù chữ 1 1,3 Cấp I 19 25,4 Cấp II 27 36 Cấp III 21 28 Cao đẳng/trung cấp 4 5,3 Đại học/trên đại học 3 4 Các yếu tố liên quan trước khi nhập viện  Bảng 3. Thời gian xảy ra các ca tự tử (n=75)  Thời gian xảy ra các ca tự tử Tần số Tỷ lệ Thời gian* 0 – 6 giờ sáng 6 ,2 6 -12 giờ sáng 25 4,3 12-18 giờ chiều 23 1,5 18-24 giờ tối 19 6 Tuần tự tử Tuần 1 16 1,3 Tuần 2 12 6 Tuần 3 24 2 Tuần 4 23 0,7 Tháng tự tử Quý 1 21 8 Quý 2 10 3,3 Quý 3 28 7,4 Quý 4 16 1,3 Phương thức đầu độc  Bảng 4. Phương thức đầu độc (n = 75)  Phương thức đầu độc Tần số Tỷ lệ Loại thuốc tự tử Hoá chất trừ sâu/diệt cỏ 7 ,3 Hoá chất diệt chuột 2 ,7 Thuốc ngủ 3 4 Thuốc trị cảm 17 2,7 Thuốc khác 31 1,3 Không rõ 15 0 Nguyên nhân tự tử  Bảng 5. Nguyên nhân dẫn đến hành vi tự tử (n = 67)  Nguyên nhân dẫn đến tự tử Tần số Tỷ lệ (%) Bệnh tật 3 4 Tình cảm 23 30,7 Bức xúc gia đình, xã hội 44 58,7 Khác 5 6,6 Mối liên quan giữa nguyên nhân tử vong và các đặc điểm dân số học  Bảng 10. Mối liên quan giữa nguyên nhân tử vong và các đặc điểm dân số học   Đặc điểm dân số học Nguyên nhân tự tử Bệnh tật n (%) Tình cảm n (%) Bức xúc gia đình, xã hội n (%) Khác n (%) . Nhóm tuổi: 15-19 0 (0) 4 (44,4) 4 (44,4) 1 (11,2) 0,03 20-24 0 (0) 6 (23,1) 20 (76,9) 0 (0) 25-44 2 (5,9) 13 (36,2) 16 (47,1) 3 (8,8) 45-64 0 (0) 0 (0) 4 (80) 1 (20) > 64 1 (100) 0 (0) 0 (0) 0 (0) Giới: Nam 2 (12,5) 4 (25) 7 (43,8) 3 (18,7) 0,03 Nữ 1 (1,7) 19 (32,2) 37 (62,7) 2 (3,4) Nơi cư trú: Thành thị 1 (2,6) 12 (30,7) 23 (59) 3 (7,7) Nông thôn 2 (14,3) 0 (0) 11 (78,6) 1 (7,1) 0,03 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương  87 Đặc điểm dân số học Nguyên nhân tự tử Bệnh tật n (%) Tình cảm n (%) Bức xúc gia đình, xã hội n (%) Khác n (%) . Tỉnh khác 0 (0) 9 (45) 10 (50) 1 (5) Nghề nghiệp: Sinh viên 0 (0) 0 (0) 13 (100) 0 0,04 Học sinh 0 (0) 3 (60) 1 (20) 1 (20) Cán bộ công chức 0 (0) 2 (100) 0 (0) 0 (0) Dịch vụ 1 (12,5) 2 (25) 5 (62,5) 0 (0) Buôn bán 1 (5,9) 6 (35,3) 8 (47,1) 2 (11,8) Làm nông 0 (0) 1 (25) 2 (50) 1 (25) Công nhân 0 (0) 4 (50) 4 (50) 0 (0) Thất nghiệp 1 (5,6) 5 (27,8) 11 (61,1) 1 (5,6) Trình độ học vấn Mù chữ 0 (0) 0 (0) 0 (0) 1 (100) 0,03 Cấp I 1 (5,3) 1 (5,3) 16 (84,1) 1 (5,3) Cấp II 0 (0) 10 (37) 16 (59,3) 1 (3,7) Cấp III 2 (9,5) 9 (42,9) 8 (38,1) 2 (9,5) Cao đẳng/trung cấp 0 (0) 2 (50) 2 (50) 0 (0) Đại học 0(0) 1(33,3) 2(66,7) 0(0) Mối liên quan giữa các yếu tố trước nhập viện và nguyên nhân tự tử  Bảng 11. Mối liên quan giữa nguyên nhân tự tử và các yếu tố trước nhập viện  Nguyên nhân tự tử Yếu tố trước nhập viện Bệnh tật n (%) Tình cảm n (%) Bức xúc gia đình, xã hội n (%) Khác n (%) p Giờ tự tử 0-6 giờ sáng 0 (0) 0(0) 6(100) 0 (0) 0,18 6-12 giờ sáng 2 (8) 6(24) 14(56) 3 (12) 12-18giờ chiều 0 (0) 9(39,1) 14 (60,9) 0 (0) 18-24 giờ tối 0 (0) 8(42,1) 9 (47,4) 2 (11,5) Ngày tự tử Tuần 1 0 (0) 9(56,3) 6 (37,5) 1 (6,2) 00,03 Tuần 2 1(8,3) 4(33,3) 7 (58,3) 0 (0) Tuần 3 2(8,3) 8(33,3) 12 (50) 2 (8,3) Tuần 4 0 (0) 2 (8,7) 19 (82,6) 2 (8,7) Tháng tự tử Quý 1 1(4,8) 8(38,2) 11 (52,4) 1 (4,8) 00,01 Quý 2 1(10) 5 (50) 2 (20) 2 (20) Quý 3 1 (3,6) 9 (32,1) 18 (64,3) 0 (0) Quý 4 0 (0) 1 (6,3) 13 (81,3) (12,5) Mối liên quan giữa sơ cấp cứu và nguyên  nhân tự tử  Bảng 14. Mối liên quan giữa nguyên nhân tự tử và  sơ cấp cứu  Nguyên nhân tự tử Sơ cấp cứu Bệnh tật n (%) Tình cảm n (%) Bức xúc giađình,xã hội n (%) Khác n (%) p Không 2 (3,5) 18 (31,6) 33 (57,9) 4 (7) Có 0 (0) 4 (40) 6 (60) 0 (0) 0,9 BÀN LUẬN  Đặc điểm dân số học của mẫu nghiên cứu  Giới  Ở các nước phương Tây(1,2,3), nam giới bị chết  bởi tự sát nhiều hơn nữ giới, mặc dù nữ giới lại  cố gắng tự sát nhiều hơn. Một số chuyên gia y tế  tin này điều này xuất phát từ thực tế là nam giới  có  nhiều  khả  năng  kết  thúc  cuộc  sống  của  họ  bằng  các  biện  pháp mạnh  bạo  hiệu  quả  hơn,  trong khi phụ nữ chủ yếu sử dụng các phương  thức ít nghiêm trọng ví dụ như uống thuốc quá  liều.  Trong  nghiên  cứu  của  tác  giả  Phan  Thị  Hòa(Error! Reference source not found.) ở thành phố Đà Nẳng  cũng cho kết quả tương tự.  Trong số 75 ca khảo sát ở nghiên cứu của  chúng  tôi, nữ giới  chiếm  đa  số hơn nam giới  (72% và 28%), do nữ  thường dễ bị sốc do các  yếu tố tình cảm, gia đình, và dễ bị tổn thương  hơn nam giới. Do đó việc không làm chủ được  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 88 mình  và dễ dẫn  đến  các hiện  tượng  tiêu  cực  như bỏ nhà đi, và khi không có lối thoát thì sẽ  hành  động  tự hủy hoại  cơ  thể mình. Khi  xét  mối liên quan với nguyên nhân tự tử chúng tôi  thấy:  nhóm  tuổi  nữ  giới  bức  xúc  gia  đình‐xã  hội  chiếm  cao  nhất  (37%),  yếu  tố  tình  cảm  đứng hàng thứ hai (19%) mối liên quan nầy có  ý nghĩa thống kê (p<0,05).  Tuổi  Về  độ  tuổi  có  hành  vi  nguy  cơ  tự  tử  cao  nhất  là  độ  tuổi  từ  24  đến  44  tuổi  (39  trường  hợp, chiếm tỉ lệ 54,2% số vào viện tuy có 5 độ  tuổi). Kế đến  là  lứa  tuổi 20 đến 24  (17  trường  hợp, 23,6%). Khi xét mối liên quan giữa nhóm  tuổi và nghuyên nhân  tự  tử: nhóm  tuổi 20‐24  liên quan đến nguyên nhân bức xúc gia đình‐ xã hội chiếm cao nhất  (20%), yếu  tố  tình cảm  chỉ  liên  quan  6%,  nhóm  tuổi  25‐44  liên  quan  đến  nguyên  nhân  bức  xúc  gia  đình‐xã  hội  đứng  thứ  2  (16%),  nhưng  nguyên  nhân  tình  cảm lại chiếm cao nhất (16%). Sự khác biệt nầy  có ý nghĩa  thống kê  (p<0,05). Nghiên cứu của  các tác giả: Phan Thị Hòa(Error! Reference source not found.)  và Đỗ HồngThu(2) cũng  cho kết quả  tương  tự  nghiên cứu của chúng tôi. Đây là 2 nhóm tuổi  dậy  thì và mới  trưởng  thành, đa số chưa chín  chắn về phương diện  tình cảm, công việc  làm  ăn, học vấn thất bại, chưa có công ăn việc làm  ổn định, thêm vào đó các áp lực về gia đình, xã  hội  làm  cho  đối  tượng dễ dẫn  đến  tình  trạng  tiêu cực.  Nơi cư trú  Ở  châu Á  theo Patel V(2), Zhang  J(5,6), Yip(4)  BN  tự  tử đa số sống ở nông  thôn,  theo CDC ở  Hoa Kỳ BN tự tử đa số sống ở thành thị. Ở mẫu  nghiên cứu của chúng tôi BN sống thành thị và  vùng  đô  thị hóa, dân nhập  cư  từ  các  tỉnh nên  đặc thù về nhân khẩu học có khác với các nghiên  cứu  khác. Nghiên  cứu  của  chúng  tôi BN  sống  thành thị có 39 BN (53,4%), BN sống nông thôn  14 BN (19,2%), tỉnh khác 20 BN (27,4%). Khi xét  mối liên quan giữa nơi cư trú và nguyên nhân tự  tử: bn sống ở thành thị bức xúc gia đình& xã hội  là  cao  nhất  (23%),  sau  đó  là  vấn  đề  tình  cảm  (12%), bn sống ở nông  thôn bức xúc gia đình&  xã hội là cao nhất (11%), kế đến là bệnh tật (2%),  dân  nhập  cư  là  cao  nhất  (23%)  bức  xúc  gia  đình& xã hội và yếu  tố  tình cảm  tương đương  nhau (10% và 9%). Mối liên quan nầy có ý nghĩa  thống kê  (p<0,05). Qua phân  tích  thống kê  ta  thấy dù bệnh nhân  sống  ở  đâu nguyên nhân  hàng đầu dẫn đến  tự ử vẫn  là yếu  tố bức xúc  gia đình& xã hội, cho nên yếu  tố gia đình& xã  hội là nền tảng để giảm tự tử.  Nghề nghiệp  Theo các tác giả: Phan Thị Hòa(Error! Reference source  not  found.),  Đặng Quang  Tâm(0),  Đỗ Hồng  Thu(Error!  Reference  source not  found.)  đa  số BN  tự  đầu  độc  là  nông  dân, học vấn thấp và phương thức tự đầu độc là  uống thuốc trừ sâu và diệt cỏ. Theo CDC đa số  người tự tử ở Hoa Kỳ  là học sinh, sinh viên kế  đến là người thất nghiệp. Theo các tác giả: Patel  V(2), Phillips(3), Yip(4),đa số BN tự tử ở nông thôn  là thuốc trừ sâu,ở thành thị là người thất nghiệ,  kế  đến  là học  sinh,  sinh viên. Nghiên  cứu  của  chúng  tôi:  thất  nghiệp  chiếm  tỉ  lệ  cao  (24%),  buôn bán  (22,7%), sinh viên  (17%). Khi xét mối  liên quan giữa nghề nghiệp và nguyên nhân tự  tử: yếu  tố bức  xúc gia  đình&  xã hội  sinh viên  liên quan cao nhất (13%), kế đến  là thất nghiệp  (11%), buôn bán (8%). Yếu tố tình cảm liên quan  nhiều nhất người làm nghề buôn bán, kế đến là  người thất nghiệp, công nhân, những liên quan  nầy đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Qua phân  tích ta thấy người thất nghiệp, học sinh,sinh viên  là những nghề nghiệp có tỉ lệ tự tử cao nhất.  Trình độ học vấn  Trình  độ học vấn  thấp,  thu nhập  thấp,  đói  nghèo là yếu tố đưa đến tự tử ở nhiều nước châu  Á. Tác giả Zhang  J(5,6)  ở Trung Quốc  và Patel  V(2) ở Ấn Độ trình độ học vấn thấp chiếm 65%  số  ca  tự  tử.  Ở nghiên  cứu  của  chúng  tôi học  vấn  cấp  I,II  chiếm  61,4%,  cấp  III  28%,  cao  đẳng‐  đại  học  chiếm  rất  ít.  Khi  xét mối  liên  quan giữa trình độ học vấn à nguyên nhân tự  tử nhận  thấy cấp  I,II bức xúc gia đình& xã hội  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  (16%,  16%),  cấp  II,III  lên  quan nhiều đến vấn đề tình cảm (10%, 9%). Qua  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương  89 phân tích ta thấy người học vấn thấp tự tử nhiều  hơn người có học vấn cao.  Các yếu tố liên quan trước khi nhập viện.  Giờ tự tử  Theo  các  nghiên  cứu  của  các  tác  giả:  Phillips(3),  Patel V(2)  thì  thời  gian  tự  tử  của  BN  thường xảy ra trong ngày. Các tác giả lí giải vì ở  châu Á thường sinh hoạt theo kiểu đại gia đình  nên xung đột cá nhân trong gia đình thường xảy  ra ban ngày. Nghiên cứu của chúng  tôi giờ BN  tự tử thường gập từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều  chiếm 65,8% cũng tương tự như nghiên cứu của  2  tác giả  trên. Tuy nhiên khi xét mối  liên quan  giữa  giờ  tự  tử  và  nghiên  nhân  tự  tử  thì  thấy  không  có ý nghĩa  thống kê  (p>0,05)  có  lẽ mẫu  của chúng tôi còn nhỏ nên thống kê bị lệch.  Tuần xảy ra tự tử  Cũng theo Phillips(3), Patel V(2) và theo thống  kê của CDC thì tự tử thường xảy ra ở tuần cuối  tháng do những người hưởng lương theo tháng  lúc  nầy  đã  dùng  hết  tiền  tâm  lí  trở  nên  cùng  quẩn và những thương vụ giao dịch thường xảy  ra cuối  tháng, người  thất bại  trong những giao  địch  đó  cũng  thường  tự  tử.  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thấy  tự  tử  xảy  ra  tuần  thứ  3  trong  tháng có 23 trường hợp chiếm 31,5%, tuần thứ 4  có 23  trường hợp  chiếm 26%. Khi xét mối  liên  quan giữa  tuần  xảy  ra  tự  tử  với nguyên nhân  thấy: bức xúc gia đình& xã hội tuần thứ 4 là cao  nhất  (19%), kế đến  là  tuần  thứ 3  (12%). Sự  liên  quan  nầy  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p<0,05).  Qua  phân  tích  ta  thấy  tuần  cuối  tháng  tự  tử  nhiều  hơn các tuần trong tháng.  Mùa xảy ra tự tử  Zhang  J(5,6) và  cộng  sự đã  tiến hành nghiên  cứu về mùa vụ  trong  tự  tử ông ghi nhận rằng:  cuối hạ đầu thu là mùa xảy ra tự tử nhiều nhất.  Ông  lí giải: mùa  thu  là mùa  làm cho các  thi sỹ  bay bỏng, nhưng cũng là mùa mà người ta thấy  cô đơn, lẻ loi nhất khi gập sự cố trong đời sống  thì người  ta dễ  đi  đến  tự  tử. Trong  75  trường  hợp nghiên cứu của chúng tôi có trường hợp tự  tử vào mùa  thu  chiếm 37,4%. Khi xét mối  liên  quan giữa mùa xảy ra tự tử và nguyên nhân tự  tử  thấy: bức  xúc gia  đình&  xã hội  có mối  liên  quan  cao nhất  (17%), yếu  tố  tình  cảm  cũng  có  mối liên quan cao (9%). Mối liên quan nầy có ý  nghĩa  thống kê  (p<0,05). Qua phân  tích  ta  thấy  mùa thu là mùa tự tử nhiều hơn các mùa trong  năm.  Phương thức đầu độc  Theo Patel V(2), Zhang J(5,6) và  theo  thống kê  của CDC thì phương thức tự đầu độc ở châu Á  và  các  nước  phương  Tây  có  khá  nhau:  Ở  phương Tây nguyên nhân tự tử thường do tâm  thần, người tự tử thương dùng súng hay treo cổ,  ở  các  nước  châu Á  người  tự  tử  thường  dùng  thuốc  chủ  yếu  là  thuốc  trừ  sâu  (chiếm  >60%).  Mẫu  nghiên  cứu  của  chúng  tôi dân  số  đến  từ  nhiều nguồn cho nên phương  thức đầu độc rất  phức tạp. Trong 75 trường hợp nghiên cứu của  chúng  tôi  có  41  trường  hợp  tự  đầu  độc  bằng  nhiều  loại  thuốc chiếm 41,3%,  thuốc cảm có 17  trường  hợp  chiếm  22,7%,  không  rõ  loại  có  15  trường hợp chiếm 20%,  thuốc  trừ sâu/diệt cỏ 7  trường hợp  chiếm 9,3%. Khi xét mối  liên quan  giữa phương  thức đầu độc và nguyên nhân  tự  tử thấy không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Có  lẽ mẫu của chúng tôi còn nhỏ, phương thức đầu  độc phức tạp nên thống kê chưa chính xác.  Một số ghi nhận về  tình  trạng bệnh nhân  nhập cấp cứu  ‐ Không có sơ cứu trước nhập viện 65 trường  hợp, chiếm tỉ lệ 86,7%.  ‐ Tình trạng lâm sàng lúc nhập viện:  + Tri giác:  tỉnh  táo 82,7%,  lơ mơ 14,6%, mê  2,7%.  + Tim mạch: ổn định 94,7%, rối loạn nhịp tim  5,3%.  + Hô hấp: ổn