Mục tiêu: Cuối thập niên 1990, phác đồ FUFA (5‐FU + Folinic axit) trong 6 tháng được xem là phác đồ chuẫn cho hoá trị hỗ trợ cho bệnh ở giai đoạn III. Gần đây, sự ra đời của oxaliplatin đã góp phần quan trọng trong điều trị ung thư đại trực tràng di căn. Các phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin như FOLFOX và XELOX (CapeOx) đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới, nâng cao tỉ lệ sống 5 năm ở những bệnh nhân ung thư đại trực tràng lên tới 80%. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để đánh giá khả năng dung nạp và hiệu quả của phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin. Phương pháp nghiên cứu: Đoàn hệ tiền cứu, theo dõi những bệnh nhân ung thư đại trực tràng ở giai đoạn II, III, IV được phẫu thuật cắt đại trực tràng có u tại bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 4 năm 2009 đến tháng 3 năm 2012 và được hoá trị hỗ trợ sau mổ. Kết quả: Từ tháng 4/2009 đến tháng 3/2012 chúng tôi có 127 trường hợp ung thư đại trực tràng được phẫu thuật và hoá trị tại bệnh viện, trong đó có 67 nam và 60 nữ. Hầu hết bệnh ở giai đoạn III và có 5,5% bệnh nhân đến bệnh viện ở giai đoạn dii căn xa. Giảm bạch cầu hạt và viêm thần kinh ngoại vi là tác dụng phụ thường gặp của phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin. Kết luận: Phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin được dung nạp tốt và có thể sử dụng an toàn ở bệnh nhân Việt nam, ngay cả những bệnh nhân lớn tuổi.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả trung hạn hóa trị hỗ trợ ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 180
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TRUNG HẠN HÓA TRỊ HỖ TRỢ UNG THƯ
ĐẠI TRỰC TRÀNG TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Lê Bá Thảo*, Huỳnh Văn Nghĩa*, Lâm Thành Quốc*, Ngô Quang Duy*.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Cuối thập niên 1990, phác đồ FUFA (5‐FU + Folinic axit) trong 6 tháng được xem là phác đồ
chuẫn cho hoá trị hỗ trợ cho bệnh ở giai đoạn III. Gần đây, sự ra đời của oxaliplatin đã góp phần quan trọng
trong điều trị ung thư đại trực tràng di căn. Các phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin như FOLFOX và XELOX
(CapeOx) đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới, nâng cao tỉ lệ sống 5 năm ở những bệnh nhân ung thư đại
trực tràng lên tới 80%. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để đánh giá khả năng dung nạp và hiệu quả của
phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin.
Phương pháp nghiên cứu: Đoàn hệ tiền cứu, theo dõi những bệnh nhân ung thư đại trực tràng ở giai đoạn
II, III, IV được phẫu thuật cắt đại trực tràng có u tại bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 4 năm 2009 đến
tháng 3 năm 2012 và được hoá trị hỗ trợ sau mổ.
Kết quả: Từ tháng 4/2009 đến tháng 3/2012 chúng tôi có 127 trường hợp ung thư đại trực tràng được
phẫu thuật và hoá trị tại bệnh viện, trong đó có 67 nam và 60 nữ. Hầu hết bệnh ở giai đoạn III và có 5,5% bệnh
nhân đến bệnh viện ở giai đoạn dii căn xa. Giảm bạch cầu hạt và viêm thần kinh ngoại vi là tác dụng phụ thường
gặp của phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin.
Kết luận: Phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin được dung nạp tốt và có thể sử dụng an toàn ở bệnh nhân
Việt nam, ngay cả những bệnh nhân lớn tuổi.
Từ khoá: hoá trị hỗ trợ, ung thư đại trực tràng, oxaliplatin.
ABSTRACT
EVALUATE THE MEDIAN FOLLOWUP TIME RESULTS OF ADJUVANT CHEMOTHERAPY
OF COLO‐RECTAL CANCERS AT NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL
Le Ba Thao, Huynh Van Nghia, Lam Thanh Quoc, Ngo Quang Duy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 180 ‐ 186
Aims: A 6‐month bolus schedule of fluorouracil (FU)/folinic acid (FA) was recognized as the standard
adjuvant regimen for stage III disease. More recently, oxaliplatin, after having emerged as an important
chemotherapeutic agent in metastatic colorectal cancer, has been evaluated in the adjuvant setting. Our study is
to evaluate the efficacy and tolerence of oxaliplatin based chemotherapy regimen on advanced colorectal cancer at
our hospital.
Methods: Prospective cohort, following up all of colo‐rectal cancers that were operated and received
adjuvant chemotherapy at Nhan dan Gia Dinh hospital from April.2009 to March.2012.
Results: from April.2009 to March 2012, we had 127 cases of colo‐rectal cancer including 67 male and 60
female receiving adjuvant chemotherapy. Most of patients is at stage III and 5.5% was at stage IV colo‐rectal
cancer. Neutropenia in oxaliplatin base chemotherapy is not different from FUFA and could be acceptable. The
most common side effect of oxaliplatin base chemotherapy is chronic peripheral neuropathy but not serious.
Conclusion: oxaliplatin base chemotherapy is tolerent and can be used safety in Vietnamese patient even for
elderly patient.
Key words: colo‐rectal cancer, adjuvant chemotherapy, oxaliplatin.
* Khoa Ngoại Tiêu Hóa ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: TS.BS.Lê Bá Thảo, ĐT: 0913.123.013, Email: thaoleba@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 181
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đại trực tràng là bệnh rất hay gặp
tại các nước Âu Mỹ, là nguyên nhân gây tử vong
đứng hàng thứ hai trong các nguyên nhân tử
vong vì ung thư. Tỷ lệ mắc bệnh cũng như tỷ lệ
tử vong đều gia tăng hàng năm(1). Tại Việt nam,
ung thư đại trực tràng là bệnh lý thường gặp
nhất trong các loại ung thư đường tiêu hóa.
Chẩn đoán thường ở giai đoạn muộn (giai đoạn
III, IV), làm tăng nguy cơ tử vong trong vòng 5
năm lên tới 50‐70%. Phẫu thuật là phương pháp
điều trị đầu tiên, tuy nhiên 25% các trường hợp
không thể phẫu thuật cắt bỏ khối ung thư ngay
cả khi khối ung thư đã được cắt bỏ triệt để thì sự
tái phát và di căn trong ổ bụng vẫn xảy ra trong
khoảng một phần ba các trường hợp(11). Do đó, ít
nhất 50% bệnh nhân ung thư đại trực tràng cần
phải được hoá trị hỗ trợ, hoặc là hoá trị điều trị
tạm bợ trong trường hợp bệnh tiến triển không
phẫu thuật được, hoặc là cố gắng làm giảm
nguy cơ tái phát sau phẫu thuật triệt căn(2,7).
Hoá trị hỗ trợ đã cải thiện tiên lượng sống
cho những bệnh nhân ung thư đại trực tràng
tiến triển tại chỗ và di căn(1,11). Cuối thập niên
1990, phác đồ FUFA (5‐FU + Folinic axit) trong 6
tháng được xem là phác đồ chuẫn cho hoá trị hỗ
trợ cho bệnh ở giai đoạn III. Gần đây, sự ra đời
của oxaliplatin đã góp phần quan trọng trong
điều trị ung thư đại trực tràng di căn(16). Các
phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin như
FOLFOX và XELOX (CapeOx) đã được sử dụng
rộng rãi trên thế giới, nâng cao tỉ lệ sống 5 năm ở
những bệnh nhân ung thư đại trực tràng lên tới
80%. Tại Việt nam, phác đồ trị liệu này đã được
áp dụng tại một số bệnh viện. Tuy nhiên chưa có
công trình nghiên cứu với quy mô lớn đánh giá
kết quả điều trị và theo dõi bệnh. Chúng tôi áp
dụng các phác đồ hoá trị mới này tại bệnh viện
Nhân dân Gia Định từ tháng 4 năm 2009 và tiến
hành nghiên cứu này để đánh giá khả năng
dung nạp và hiệu quả của chúng.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá khả năng dung nạp của bệnh nhân
với phác đồ hóa trị liệu hỗ trợ dựa trên
oxaliplatin: FOLFOX, XELOX và phác đồ nhắm
trúng đích: Avastin + XELOX và Avastin +
FOLFOX trong ung thư đại trực tràng tiến triển.
Đánh giá kết quả trung hạn trong việc áp
dụng phác đồ FOLFOX và XELOX trong hóa trị
liệu hỗ trợ ung thư đại trực tràng tại bệnh viện
Nhân dân Gia định.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đoàn hệ tiền cứu.
Những bệnh nhân ung thư đại trực tràng ở
giai đoạn II, III, IV được phẫu thuật cắt đại trực
tràng có u tại bệnh viện Nhân dân Gia Định từ
tháng 4 năm 2009 đến tháng 3 năm 2012 và được
hoá trị hỗ trợ sau mổ.
Hoá trị hỗ trợ được bắt đầu khoảng 3 tuần
sau phẫu thuật.
Áp dụng phác đồ FOLFOX, XELOX, Avastin
+ XELOX và Avastin + FOLFOX trong hóa trị
liệu hỗ trợ ung thư đại trực tràng tiến triển tại
vùng và di căn. Chỉ định điều trị tuân theo
NCCN (National Comprehensive Cancer
Network: Mạng lưới ung thư toàn diện quốc gia
(của Mỹ).
Theo dõi bệnh nhân trong suốt chu kỳ hóa
trị, ghi nhận các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm
sàng để theo dõi đáp ứng với điều trị cũng như
đánh giá khả năng dung nạp thuốc và theo dõi
chức năng gan, thận, bạch cầu hạt, hồng cầu và
tiểu cầu trong các chu kỳ hoá trị.
Theo dõi và ghi nhận diễn tiến bệnh và tác
dụng phụ mỗi 3 tuần đối với phác đồ XELOX,
mỗi 2 tuần đối với phác đồ FOLFOX và mỗi 4
tuần đối với phác đồ FUFA.
Đánh giá tỉ lệ sống toàn bộ (OS: overall
survival)
Ghi nhận các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm
sàng để đánh giá sự tái phát của bệnh sau khi
hết chu kỳ hoá trị và tái khám định kỳ theo lịch
hẹn.
Sử dụng chương trình thống kê SPSS 19 để
xử lý số liệu.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 182
Từ 04/2009 đến 03/2012 chúng tôi có 127
trường hợp ung thư đại trực tràng được phẫu
thuật và hoá trị hỗ trợ. Trong đó có 67 bệnh
nhân nam chiếm tỷ lệ 53% và 60 bệnh nhân nữ
chiếm tỷ lệ 47%. Tuổi thường gặp nhất là từ 50‐
70 tuổi (73 trường hợp, chiếm 57,4%), trong đó
tuổi nhỏ nhất là 32 và lớn nhất là 82. Nhóm tuổi
thường gặp này phù hợp các báo cáo trong y
văn và các tác giả khác(3,4).
Giai đoạn bệnh theo TNM
Bảng 1: Giai đoạn bệnh theo TNM
M
N
Total
N0 N1 N2
M0
T
T2 1 0 0 1
T3 11 34 9 54
T4 14 29 22 65
Total 26 63 31 120
M1
T
T3 1 0 1
T4 2 4 6
Total 3 4 7
Total
T
T2 1 0 0 1
T3 11 35 9 55
T4 14 31 26 71
Total 26 66 35 127
Đa số bệnh nhân vào viện khi u to T3, T4
hoặc có biến chứng (thủng, tắc ruột) và đã có di
căn hạch, chỉ có 1 trường hợp bệnh nhân ở giai
đoạn IB. Trong lô nghiên cứu của chúng tôi có 7
trường hợp di căn xa, trong đó 5 trường hợp di
căn gan đa ổ, 1 trường hợp di căn phổi và 1
trường hợp di căn cả gan và phổi.
Biểu đồ 1: Phác đồ hoá trị và giai đoạn bệnh
Bảng 2: Giai đoạn bệnh, tuổi và phác đồ hoá trị
Phác đồ hoá trị hỗ trợ
Tuổi
Total 31 - 40 41 - 50 51 - 60 61 - 70 71 - 80 81 - 90
FUFA Stage Stage IIIA 1 1 1 1 4
Stage IIIB 2 3 3 2 10
Stage IIIC 0 0 4 0 4
Total 3 4 8 3 18
XELOX Stage Stage IB 0 1 0 0 0 0 1
Stage IIA 0 0 1 0 0 0 1
Stage IIB 0 0 2 4 1 0 7
Stage IIIA 0 1 3 1 2 0 7
Stage IIIB 2 9 13 13 4 0 41
Stage IIIC 0 3 8 6 5 1 23
Stage IV 0 0 0 1 0 0 1
Total 2 14 27 25 12 1 81
FOLFOX4 Stage Stage IIB 0 0 1 0 0 1
Stage IIIA 0 1 0 0 0 1
Stage IIIB 3 4 2 2 1 12
Stage IIIC 0 0 4 1 2 7
Stage IV 0 0 1 1 1 3
Total 3 5 8 4 4 24
XELOX
+AVASTIN
Stage Stage IV 1 1 1 3
Total 1 1 1 3
FOLFOX4
+AVASTIN
Stage Stage IIIC 1 1
Total 1 1
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 183
Phác đồ hoá trị hỗ trợ
Tuổi
Total 31 - 40 41 - 50 51 - 60 61 - 70 71 - 80 81 - 90
Total Stage Stage IB 0 1 0 0 0 0 1
Stage IIA 0 0 1 0 0 0 1
Stage IIB 0 0 3 4 1 0 8
Stage IIIA 1 3 3 2 3 0 12
Stage IIIB 7 16 15 18 7 0 63
Stage IIIC 0 4 12 11 7 1 35
Stage IV 0 0 2 2 2 1 7
Total 8 24 36 37 20 2 127
Đa số bệnh nhân vào viện trong giai đoạn
trễ của bệnh, giai đoạn III, chiếm tỷ lệ 86.6%
(110/127), phác đồ hoá trị hỗ trợ dùng nhiều
nhất là XELOX. Có 7 trường hợp bệnh ở giai
đoạn IV, trong đó có 3 trường hợp được áp
dụng phác đồ hoá trị liệu nhắm trúng đích với
Bevacizumab (Avastin), 4 trường hợp còn lại
bệnh nhân được điều trị phác đồ XELOX và
FOLFOX do bệnh nhân không có đủ điều kiện
kinh tế để điều trị. Trong lô nghiên cứu này,
phác đồ hoá trị được xử dụng nhiều nhất là
XELOX vì từ năm 2010 chúng tôi không có 5‐
FU nên không tiếp tục dùng phác đồ FOLFOX
được và còn 1 lý do nữa là bệnh nhân yêu cầu
dùng thuốc uống hơn là truyền liên tục trong 2
ngày (FOLFOX). Chúng tôi áp dụng phác đồ
XELOX nếu bệnh nhân không muốn dùng
FOLFOX vì theo y văn hiệu quả của hai phác
đồ trên có hiệu quả điều trị tương đương nhau
và phác đồ XELOX về mặt nào đó dễ chấp
nhận hơn và cũng có hiệu quả kinh tế hơn(14,8).
Vấn đề kinh tế ở Việt nam thực sự không khác
biệt lắm vì viện phí và công tiêm truyền tương
đối thấp. Mặc dù nhiều nghiên cứu và y văn
đã cho thấy rõ hiệu quả vượt trội của phác đồ
hoá trị dựa trên oxaliplatin so với 5‐FU(9,15),
nhưng chúng tôi áp dụng phác đồ FUFA cho
10 trường hợp giai đoạn IIIB và 4 trường hợp
giai đoạn IIIC vì điều kiện kinh tế của bệnh
nhân không cho phép dùng phác đồ dựa trên
oxaliplatin. Những trường hợp này cũng có
đáp ứng tốt vời điều trị.
CEA
Mức CEA giảm sau các chu kỳ hoá trị. Trong
phác đồ hoá trị XELOX + Avastin có mức CEA
tăng sau 8 chu kỳ hoá trị; bệnh nhân điều trị
phác đồ này đều ở giai đoạn IV di căn xa; CEA
tăng cao lại là dấu hiệu cho thấy bệnh không
đáp ứng điều trị.
Bảng 3: Thay đổi CEA và phác đồ hoá trị
Phác đồ hoá trị CEA lần 1 CEA lần 4 CEA lần 8
FUFA 4,07 2,83 3,04
XELOX 6,88 6,06 3,92
FOLFOX4 7,04 4,08 5,63
XELOX+AVASTIN 11,69 3,91 12,94
FOLFOX4+AVASTIN 22,60 2,37 1,86
Giảm bạch cầu hạt
Bảng 4: Mức độ giảm bạch cầu hạt và phác đồ điều
trị
Phác đồ
hoá trị BC 1 BC 2 BC 3 BC 4 BC 5 BC 6 BC 7 BC 8
FUFA 3,96 3,35 3,17 3,00 2,07 2,12
XELOX 4,09 3,26 2,96 2,59 2,35 2,06 1,86 1,79
FOLFOX4 3,49 2,85 2,57 2,89 1,91 2,09 1,74 1,88
XELOX+AV
ASTIN 6,28 3,25 3,51 2,52 2,11 2,30 3,12 2,29
FOLFOX4+
AVASTIN 3,34 3,34 2,84 1,86 1,64 1,28 1,19 2,28
Mức độ giảm bạch cầu hạt không khác nhau
giữa các phác đồ điều trị. Nhìn chung mức độ
giảm bạch cầu hạt trong giới hạn cho phép (trên
1,5 K/μL) ở mức độ giảm này chưa gây biến
chứng nguy hiểm liên quan đến nhiễm khuẩn.
trong nhóm sử dụng phác dựa trên oxaliplatin
chúng tôi có sử dụng filgrastim để kích thích
tăng bạch cầu hạt trong một số trường hợp giảm
bạch cầu hạt dưới 1.5 K/μL, tuy nhiên không có
bệnh nhân nào có biến chứng nhiễm khuẩn liên
quan giảm bạch cầu hạt. Kết quả này cho thấy
phác đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin an toàn và
chấp nhận được ở bệnh nhân Việt nam, ngay cả
cho bệnh nhân lớn tuổi. Kết quả này cũng phù
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 184
hợp với các nghiên cứu khác ở bệnh nhân lớn tuổi(8,5).
Tác dụng phụ
Bảng 5: tác dụng phụ của các phác đồ điều tri
Tác dụng phụ FUFA XELOX FOLFOX Avastin + XELOX Avastin + FOLFOX
Buồn nôn, nôn 12 (67%) 52 (64%) 22 (92%) 3 1
Giảm bạch cầu hạt 3 (17%) 12 (15%) 4 (17%) 2 1
HCBTBC 0 5 (6%) 2 (8%) 1 1
Tê tay 33 (17%) 53 (65%) 20 (83%) 3 1
Tiêu chảy 6 (33%) 6 (7%) 5 (21%) 3 1
Rụng tóc 0 0 2 (8%) 0 0
XHTH 0 4 (5%) 0 1 0
Tổng cộng 18 81 24 3 1
Hầu hết bệnh nhân bị buồn nôn và nôn, tuy
nhiên mức độ không nặng và có thể điều trị
bằng thuốc chống nôn (Odansetron) và ổn định
sau khoảng 1 tuần điều trị và sau đó bệnh nhân
ăn uống lại được. Hội chứng lòng bàn tay và
lòng bàn chân xảy ra ở mức độ nhẹ (độ I, II) và
không cần phải ngưng điều trị. Có 5 bệnh nhân
bị mức độ III, phải ngưng capecitabine 1 tuần và
triệu chứng giảm sau đó giảm liều Capecitabine
25%. Giảm bạch cầu hạt xảy ra nhiều hơn ở bệnh
nhân được điều trị phác đồ FOLFOX, tuy nhiên
mức giảm không nghiêm trọng và không có biến
chứng nguy hiểm liên quan đến nhiễm khuẩn.
Tác dụng phụ tê đầu ngón tay ngón chân là do
viêm dây thần kinh ngoại biên, tác dụng không
mong muốn này mặc dù không nghiêm trọng
nhưng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân. Trong lô nghiên cứu của chúng tôi
viêm dây thần kinh ngoại vi xảy ra nhiều hơn ở
nhóm bệnh nhân sử dụng phác đồ FOLFOX và
kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của
Kyung Kee Baek với tỷ lệ biến chứng viêm dây
thần kinh ngoại biên lên tới 82%(6) đối với phác
đồ hoá trị dựa trên oxaliplatin.
Tỷ lệ sống toàn bộ (OS)
Trong lô nghiên cứu chúng tôi thời gian theo
dõi lâu nhất là 48 tháng, trường hợp theo dõi ít
nhất là 12 tháng, thời gian sống còn toàn bộ
trung bình là 34,3 tháng. Chúng tôi chỉ theo dõi
được 103 bệnh nhân (chiếm tỷ lệ 81%). Các bệnh
nhân không theo dõi được do không tái khám
và trong hồ sơ không ghi nhận số điện thoại liên
lạc nên chúng tôi không liên lạc được.
Các trường hợp có liên lạc được và bệnh
nhân có tái khám nhưng đi khám nhiều ngày
trong tuần, chúng tôi chưa có đủ nhân lực cũng
như chưa có ngày khám riêng cho các bệnh
nhân tái khám hoá trị nên không đủ dữ kiện để
theo dõi thời gian sống không bệnh mà chỉ có
theo dõi được thời gian sống còn toàn bộ.
Biểu đồ 2: Tỷ lệ sống toàn bộ (OS) theo từng giai
đoạn bệnh
Bệnh nhân ở giai đoạn IV có thời gian sống
còn toàn bộ thấp nhất 17,7 tháng, kết quả này có
thấp hơn kết quả của Eduardo Diáz‐Rubio có
thời gian sống toàn bộ là 23,3 tháng và của các
tác giả khác(10,12,13). Vì số lượng bệnh còn ít nên
chúng tôi không đủ dữ kiện để so sánh hai kết
quả với nhau. Tuy nhiên, trong nhóm bệnh nhân
giai đoạn IV chúng tôi có 4 bệnh nhân không
dùng liệu pháp nhắm trúng đích, còn tất cả bệnh
nhân của Eduardo Diáz‐Rubio đều được áp
dụng phác đồ nhắm trúng đích. Bệnh nhân di
căn gan và phổi của chúng tôi được áp dụng
phác đồ nhắm trúng đích, nốt di căn gan và phổi
biến mất sau chu kỳ hoá trị, tuy nhiên sau đó
bệnh nhân tử vong vì viêm phổi mô kẽ; điều này
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 185
cũng được ghi nhận trong y văn ở những bệnh
nhân được điều trị với liệu pháp nhắm trúng
đích với bevacizumab(17).
Biểu đồ 3: Tỷ lệ sống toàn bộ (OS) theo từng phác
đồ điều trị
Tỷ lệ sống còn toàn bộ ở phác đồ XELOX và
FOLFOX có thấp là do có 4 bệnh nhân ở giai
đoạn IV nhưng không có điều kiện sử dụng
phác đồ nhắm trúng đích, các bệnh nhân này có
thời gian sống còn thấp nên làm ảnh hưởng kết
quả chung.
Trong lô nghiên cứu này chúng tôi không
nhằm mục đích so sánh hiệu quả của các phác
đồ nên không chọn bệnh ngẫu nhiên. Các bệnh
nhân được điều trị theo phác đồ FUFA kinh điển
đều là bệnh ở giai đoạn chưa tiến triển tại chỗ
cũng như là di căn xa, nên kết quả tỷ lệ sống còn
toàn bộ ở phác đồ này tương đối cao; kết quả
này khác với nghiên cứu của các tác giả khác(2,4.
Hầu hết bệnh nhân ở giai đoạn III chúng tôi đều
áp dụng phác đồ dựa trên oxaliplatin nếu điều
kiện kinh tế của bệnh nhân cho phép vì bệnh
nhân Việt nam còn số lượng lớn chưa có bảo
hiểm y tế.
KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐỀ TÀI
Phác đồ hoá trị hỗ trợ mới XELOX, FOLFOX
cũng như hoá trị nhắm trúng đích có tác dụng
phụ chấp nhận được, các tác dụng không mong
muốn không khác nhiều với phác đồ FUFA kinh
điển; và bệnh nhân có thể dung nạp được với
các phác đồ phối hợp mới này.
Thời gian theo dõi trong nghiên cứu chưa đủ
lâu (trường hợp theo dõi lâu nhất là 48 tháng)
nên chưa đánh giá được tỷ lệ sống còn toàn bộ
cũng như tỷ lệ sống không bệnh trong 5 năm.
Mặc khác chưa có ngày chuyên khám các bệnh
hoá trị tái khám nên chưa ghi nhận được thời
điểm tái phát của bệnh.
Đề này có thể phát triển thêm về số lượng
bệnh và thời gian theo dõi lâu hơn để đánh giá
tỷ lệ sống còn toàn bộ sau 5 năm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aschele C, Bergamo F, Lonardi S (2009). Chemotherapy for
operable and advanced colorectal cancer. Cancer treat rev, 04:
03‐11.
2. Aisu N, Yoshida Y, Ishii F, Miyake T, Tanimura S, Wada Y,
Yamauchi Y, Hoshino S, Noritomi T, Yamashita Y. (2013). A
Successfully Resected Case of Recurrent Lung and Liver
Metastases of Rectal Cancer Treated with XELIRI +
Bevacizumab Therapy. Oncology,6: 143‐147.
3. Aballea S, Chancellor JVM, Raikou M, Drummond MF,
Weinstein MC, Jourdan S, Bridgewater J (2007). Cost‐
Effectiveness Analysis of Oxaliplatin Compared With 5‐
Fluorouracil/Leucovorin in Adjuvant Treatment of Stage III
Colon Cancer in the US. Cancer, 109: 1082‐1089.
4. Aitini E, Rossi A, Morselli P, Vivorio B, Bruschi A, Bottura C,
Colombo GL (2012). Economic comparison of capecitabine +
oxaliplatin and 5‐fluorouracil + oxaliplatin in the adjuvant
treatment of colon cancer. Cancer Management and Research, 4:
99‐103.
5. Andre T, Boni C, Mounedji‐Boudiaf L, Navarro M, Tabernero J,
Hickish T, Topham C, Zaninelli M, Clingan P, Bridgewater J,
Tabah‐Fisch I, (2004). Oxaliplatin, Fluorouracil, and Leucovorin
as Adjuvant Treatment for Colon Cancer. The New England
Journal of Medicine, 350:2343‐51.
6. Baek KK, Lee J, Park SH, Park JO, Park YS, Lim HY, Kang WK,
Cho YB, Yun SH, Kim HC, Lee WY, Chun HK (2010).
Oxaliplatin‐Induced Chronic Peripheral Neurotoxicity: A
Prospective Analysis in Patients with Colorectal Cancer. Cancer
Res Treat, 42(4):185‐190.
7. Comella P, Natale D, Farris A, Gambardella A, Cannone M
(2005). Capecitabine Plus Oxaliplatin fo