Mục tiêu: Đánh giá sơ bộ hiệu quả điều trị và kinh tế của phương pháp chuyển đổi sớm kháng sinh hậu
phẫu IV - PO trên bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa (VPMRT).
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, cắt ngang từ tháng 4 - 7/2010. So sánh hiệu quả điều trị, thời gian
nằm viện và chi phí sử dụng kháng sinh giữa 3 nhóm bệnh nhân VPMRT: nhóm chứng chỉ dùng kháng sinh IV,
nhóm chuyển đổi sớm (PO sau 3 ngày IV) và nhóm chuyển đổi muộn (PO sau > 4 ngày IV).
Kết quả: 86 bệnh nhân tham gia nghiên cứu được phân thành 3 nhóm: nhóm chứng (31 bệnh nhân), nhóm
chuyển đổi sớm (30 bệnh nhân) và nhóm chuyển đổi muộn (25 bệnh nhân). Không có sự khác biệt về hiệu quả
điều trị giữa 3 nhóm (p = 0,629). Tuy thời gian nằm viện không khác biệt giữa các nhóm nghiên cứu (p = 0,468),
chi phí kháng sinh giảm rõ rệt ở nhóm bệnh nhân chuyển đổi sớm so với nhóm chứng (p = 0,004) và nhóm
chuyển đổi muộn (p = 0,001).
Kết luận: Chuyển đổi sớm kháng sinh hậu phẫu là một lựa chọn tốt cho cả bệnh nhân lẫn đội ngũ điều trị vì
không làm giảm hiệu quả điều trị nhưng lại giảm chi phí sử dụng kháng sinh, từ đó có thể góp phần giảm chi phí
điều trị.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sơ bộ hiệu quả chuyển đổi sớm kháng sinh hậu phẫu từ đường tiêm sang đường uống trên bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 353
ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ HIỆU QUẢ CHUYỂN ĐỔI SỚM
KHÁNG SINH HẬU PHẪU TỪ ĐƯỜNG TIÊM SANG ĐƯỜNG UỐNG
TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM PHÚC MẠC RUỘT THỪA
Đoàn Ngọc Ý Thi*, Võ Thị Kiều Quyên**, Nguyễn Thị Mai Hoàng*, Nguyễn Tuấn Dũng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sơ bộ hiệu quả điều trị và kinh tế của phương pháp chuyển đổi sớm kháng sinh hậu
phẫu IV - PO trên bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa (VPMRT).
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, cắt ngang từ tháng 4 - 7/2010. So sánh hiệu quả điều trị, thời gian
nằm viện và chi phí sử dụng kháng sinh giữa 3 nhóm bệnh nhân VPMRT: nhóm chứng chỉ dùng kháng sinh IV,
nhóm chuyển đổi sớm (PO sau 3 ngày IV) và nhóm chuyển đổi muộn (PO sau > 4 ngày IV).
Kết quả: 86 bệnh nhân tham gia nghiên cứu được phân thành 3 nhóm: nhóm chứng (31 bệnh nhân), nhóm
chuyển đổi sớm (30 bệnh nhân) và nhóm chuyển đổi muộn (25 bệnh nhân). Không có sự khác biệt về hiệu quả
điều trị giữa 3 nhóm (p = 0,629). Tuy thời gian nằm viện không khác biệt giữa các nhóm nghiên cứu (p = 0,468),
chi phí kháng sinh giảm rõ rệt ở nhóm bệnh nhân chuyển đổi sớm so với nhóm chứng (p = 0,004) và nhóm
chuyển đổi muộn (p = 0,001).
Kết luận: Chuyển đổi sớm kháng sinh hậu phẫu là một lựa chọn tốt cho cả bệnh nhân lẫn đội ngũ điều trị vì
không làm giảm hiệu quả điều trị nhưng lại giảm chi phí sử dụng kháng sinh, từ đó có thể góp phần giảm chi phí
điều trị.
Từ khóa: Chuyển đổi kháng sinh IV-PO; viêm phúc mạc; hiệu quả; kinh tế.
ABSTRACT
PRELIMINARY REPORT ABOUT THE EFFICACY OF EARLY SWITCH
FROM INTRAVENOUS TO ORAL ANTIBIOTIC IN POST-APPENDECTOMY PATIENTS
WITH PERITONITIS COMPLICATION
Doan Ngoc Y Thi, Vo Thi Kieu Quyen, Nguyen Thi Mai Hoang, Nguyen Tuan Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh* Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 353 - 358
Objective: To preliminarily evaluate the efficacy and antibiotic cost of early switching from IV to oral
antibiotic in post-appendectomy patients with peritonitis complication.
Methods: A 3-month prospective, cross-sectional study. We compared the efficacy, length of hospital stay
and antibiotic cost among 3 groups of appendicitis-induced peritonitis patients: control (IV antibiotic only), early
switching (PO antibiotic after 3-day IV) and late switching (PO antibiotic after more than 4-day IV).
Results: 86 patients included in this study were divided into 3 groups: control (31 patients), early switching
(30 patients) and late switching (25 patients). We did not find any difference in therapeutic efficacy among the 3
groups (p = 0.692). Although the length of hospital stay did not significantly change (p = 0.468), the antibiotic
cost was markedly reduced in the early switching group compared to that of the control group (p = 0.004) as well
as the late switching group (p = 0.001).
Conclusions: Early switching from IV to oral antibiotic is a best choice for post-operative patients as this
* Bộ môn Dược lâm sàng - Khoa Dược - Đại học Y Dược TPHCM
** Khoa Dược - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thị Mai Hoàng ĐT: 01656599822 Email: ntmaihoang@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 354
method can ensure the therapeutic efficacy with reduced antibiotic cost, and therefore reduced therapeutic cost.
Keywords: IV-PO switch antibiotics; peritonitis; efficacy; economic.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kháng sinh là một trong những thuốc được
sử dụng nhiều nhất tại các khoa phòng điều trị
trong bệnh viện, đặc biệt là các khoa phẫu thuật.
Vì vậy, sử dụng kháng sinh hợp lý và kinh tế
luôn là mối quan tâm, trăn trở của đội ngũ nhân
viên y tế.
Viêm ruột thừa là bệnh lý thường gặp nhất
trong cấp cứu ngoại khoa và can thiệp phẫu
thuật cắt bỏ ruột thừa sớm trong vòng 24 giờ là
phương pháp hiệu quả nhất để điều trị bệnh
này(2,3). Tuy nhiên, khi bệnh nhân đã có biến
chứng viêm phúc mạc, việc điều trị trở nên phức
tạp hơn, đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa ngoại
và nội khoa(2). Đối với các bệnh nhân này, điều
trị kháng sinh hậu phẫu từ 7-10 ngày là cần thiết
để chống nhiễm trùng ổ bụng do các vi khuẩn từ
vùng ruột thừa viêm, thường gặp nhất là
Escherichia coli và Bacteroides fragilis(1,2).
Đường sử dụng thuốc thích hợp cho bệnh
nhân hậu phẫu là tiêm tĩnh mạch (IV). Tuy
nhiên, khi bệnh nhân đã có dấu hiệu lâm sàng
cải thiện và có thể ăn uống được, chuyển đổi
đường dùng kháng sinh từ tiêm (IV) sang uống
(PO) đem lại nhiều lợi ích cho cả bệnh nhân lẫn
đội ngũ nhân viên y tế. Thật vậy, nhiều công
trình đã được công bố về chuyển đổi kháng sinh
IV sang PO cho thấy việc chuyển đổi không làm
giảm hiệu quả điều trị, an toàn cho bệnh
nhân(4,5,8,9,10) nhưng cải thiện hiệu quả kinh tế do
làm giảm thời gian nằm viện(9) và chi phí điều
trị(4,10). Tuy nhiên, theo hiểu biết của chúng tôi,
hiện chưa có nghiên cứu đánh giá hiệu quả
chuyển đổi kháng sinh trên nhóm bệnh nhân
hậu phẫu nào đã được công bố tại Việt Nam.
Nghiên cứu “Đánh giá sơ bộ hiệu quả
chuyển đổi sớm kháng sinh hậu phẫu từ IV sang
PO trên bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa”
được thực hiện tại Bệnh viện Nhân Dân Gia
Định – Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng
thời gian từ tháng 4 – 6/2010 nhằm cung cấp kết
quả sơ bộ về hiệu quả và tính kinh tế của việc
chuyển đổi kháng sinh hậu phẫu.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và thời gian nghiên cứu
Bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa đang
điều trị tại khoa Ngoại Tiêu hóa và Ngoại Niệu
của bệnh viện Nhân Dân Gia Định trong thời
gian từ tháng 4/2010 đến tháng 7/2010.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân sau phẫu thuật cắt ruột thừa nội
soi tại bệnh viện thỏa mãn các điều kiện sau:
Được chẩn đoán xác định viêm phúc mạc
ruột thừa (VPMRT).
Tuổi từ 16-65.
Đạt các tiêu chuẩn chuyển đổi kháng sinh
vào ngày thứ 3 sau phẫu thuật:[9,6,10,7]
Hệ tiêu hóa tốt – ăn uống được, không nôn
mửa, đã trung tiện được.
Không sốt trong vòng 24 giờ trước khi
chuyển kháng sinh.
Tổng trạng ổn định (nhịp tim, nhịp thở,
huyết áp bình thường).
Triệu chứng lâm sàng đang cải thiện: vết mổ
khô, không có dấu hiệu nhiễm trùng (xem Bảng
1), còn đau ít, dẫn lưu ít dịch và dịch dẫn lưu
không đục.
Bảng 1. Chỉ tiêu đánh giá nhiễm trùng
Dấu hiệu nhiễm trùng*
Nhiệt độ từ 38oC trở lên hay từ 36oC trở xuống.
Nhịp thở trên 20 nhịp/phút.
Nhịp tim hơn 90 nhịp/phút.
Lâm sàng
Vết mổ có mủ hoặc chảy nước.
Bạch cầu cao hơn 12.000/mm3 hay thấp hơn
4.000/mm3 hay (loại trừ trường hợp bạch cầu
thấp do dùng thuốc corticoid)
Cận lâm
sàng
Siêu âm có hình ảnh của dịch ổ bụng.
* Bệnh nhân được xem là bị nhiễm trùng khi có từ 2 dấu
hiệu trở lên.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân đái tháo đường.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 355
Phụ nữ có thai hay cho con bú.
Bệnh nhân viêm gan.
Bệnh nhân được thực hiện các phẫu thuật
khác trong thời gian nằm viện.
Bệnh nhân suy giảm miễn dịch: ung thư,
HIV-AIDS
Không đủ dữ liệu để đánh giá (không đến
tái khám theo hẹn, không tuân thủ điều trị)
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, cắt ngang.
Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu được
phân thành 3 nhóm điều trị theo bảng 2.
Bảng 2. Thiết kế nghiên cứu
Nhóm
β-lactam IV
(ngày sử
dụng)
Chuyển đổi
β-lactam PO
(ngày sử
dụng)
Chứng > 4 Không 0
Chuyển đổi sớm 3 Có 3-5
Chuyển đổi muộn > 4 Có 3-5
Biến số cần thu thập
Đặc điểm bệnh nhân: tuổi, giới tính.
Đặc điểm điều trị: kết quả cấy vi sinh, loại
kháng sinh được sử dụng, chi phí kháng sinh,
thời gian nằm viện, hiệu quả điều trị.
Hiệu quả điều trị được đánh giá dựa trên các
dấu hiệu nhiễm trùng (Bảng 1). Bệnh nhân có từ
2 dấu hiệu nhiễm trùng trở lên được đánh giá là
thất bại với điều trị.
Xử lý số liệu
Số liệu được xứ lý bằng phần mềm SPSS 13.0
với độ tin cậy 95%. Dữ liệu được trình bày dưới
dạng trung bình (± độ lệch chuẩn). Để so sánh
các biến định lượng, chúng tôi dùng test
Kruskal-Wallis (so sánh 3 nhóm) hay test Mann-
Whitney (so sánh 2 nhóm). Test chi bình phương
(χ2) được dùng để so sánh các tỷ lệ. Kết quả
p < 0,05 được xem là khác biệt có ý nghĩa.
KẾT QUẢ
Từ tháng 4 đến tháng 7/2010, có 123 bệnh
nhân được chẩn đoán xác định viêm phúc mạc
ruột thừa tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Trong đó, 86 bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn mẫu
được phân bố vào 3 nhóm nghiên cứu: nhóm
chứng, nhóm chuyển đổi sớm và nhóm chuyển
đổi muộn (Hình 1).
Hình 1. Phân bố nhóm nghiên cứu
Các bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu có
tuổi trung bình là 34,95 ± 12,96, tỷ lệ nam/nữ là
0,95. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về đặc
điểm dân số giữa 3 nhóm khảo sát (Bảng 3).
Loại (n = 37)
Suy giảm miễn dịch ( n = 4)
Đái tháo đường (n = 4 )
Phẫu thuật ≥ 2 lần (n = 1 )
Tuổi > 65 (n = 10 )
Sốt (n = 6)
Nhóm chứng
(n = 31)
Nhóm chuyển đổi sớm
(n = 30)
Đạt tiêu chuẩn chọn mẫu
(n = 86)
Phụ nữ có thai (n =3)
Nhóm chuyển đổi muộn
(n = 25)
Viêm phúc mạc ruột thừa
(n = 123)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 356
Bảng 3. Đặc điểm dân số của 3 nhóm bệnh nhân
Nhóm chứng
(n=31)
Nhóm
chuyển đổi
sớm (n=30)
Nhóm
chuyển đổi
muộn (n=25)
p
Tuổi 39,71 ± 15,37 31,57 ± 11,60 33,12 ± 9,51 0,083
Nam/
Nữ 14/17 14/16 14/11 0,692
Bảng 4. Các loại vi khuẩn phân lập từ dịch ổ bụng
bệnh nhân VPMRT
Loại vi khuẩn Tỷ lệ %
Không mọc 30,8%
E. coli/ ESBL (-) 48,7%
E. coli/ ESBL (+) 5,1%
Klebsiella spp./ ESBL (-) 5,1%
Proteus miragilis/ ESBL (-) 7,7%
Pantoea agglomeram/ ESBL (-) 2,6%
ESBL: Extended Spectrum Beta-Lactamase (β-lactamase
phổ rộng)
Tất cả bệnh nhân đều được làm xét nghiệm
vi sinh với mẫu bệnh phẩm là dịch ổ bụng được
lấy trong quá trình phẫu thuật. Kết quả vi sinh
được trình bày trong bảng 4. Loại vi khuẩn
thường gặp nhất tại vùng viêm là E. coli không
tiết β-lactamase phổ rộng (49%). Do bệnh viện
không xét nghiệm tìm vi khuẩn kỵ khí nên kết
quả nghiên cứu không cho biết thông tin này.
Kháng sinh được chỉ định cho bệnh nhân
tham gia nghiên cứu được tóm tắt trong bảng 5.
Khởi đầu điều trị, đa số bệnh nhân (84,9%)
được chỉ định phối hợp 1 loại β-lactam IV
(ceftriaxon; amoxicillin-clavulanat; ampicillin-
sulbactam hay ceftazidim) và 1 loại kháng sinh
IV có phổ tác động trên vi khuẩn kỵ khí
(metronidazol hay clindamycin). Ceftazidim là
β-lactam được sử dụng nhiều nhất (41,7%), kế
đến là amoxicillin-clavulanat (34,9%). Kháng
sinh trị nhiễm trùng kỵ khí được sử dụng phổ
biến nhất là metronidazol (77,9%). Khi bệnh
nhân đủ điều kiện dùng thuốc đường uống,
kháng sinh kỵ khí sẽ được chuyển sang loại PO
tương ứng (Bảng 5).
Bảng 5. Kháng sinh được chỉ định cho bệnh nhân VPMRT tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Nhóm kháng sinh Kháng sinh Đường dùng Liều dùng
IV 1,5g x 2 lần/ngày
Ampicillin - Sulbactam (Unasyn®)
PO 375mg x 2 lần/ngày
Amoxicillin – Clavulanat (Augmentin®) IV/ PO 1g x 2 lần/ngày
Ceftriaxon (Ceftriaxon®) IV 1g x 2 lần/ngày
Ceftazidim (Fortum® / Ceftazidim®) IV 1g x 2 lần/ngày
Cefuroxim (Zinnat®) PO 500mg x 2 lần/ngày
Cefixim (Mecefix®) PO 100mg x 2 lần/ngày
β-lactam
Cefdinir (Re-tid®) PO 300mg x 2 lần/ngày
5-nitro imidazol Metronidazol (Flagyl®) IV/ PO 1 - 1,5g/ngày
Lincosamid Clindamycin (Dalacin-C®) IV/ PO 0,6g x 2 lần/ngày
Sau thời gian đầu dùng thuốc đường IV,
bệnh nhân nằm trong nhóm chuyển đổi sẽ được
chỉ định 1 loại β-lactam PO là amoxicillin-
clavulanat; ampicillin-sulbactam; cefuroxim;
cefdinir hay cefixim (Bảng 5), trong đó
amoxicillin-clavulanat được chỉ định nhiều nhất
(65,5%). Ngoài ra, chúng tôi cũng ghi nhận 1
trường hợp dùng cefaclor (Verceft®), 4 trường
hợp dùng cefpodoxim (Podoxime®) và 1 trường
hợp bác sĩ chỉ định ciprofloxacin (Cipro-bay®).
Bảng 6. Hiệu quả điều trị của 3 nhóm khảo sát
Kết quả điều
trị Nhóm IV
Nhóm
chuyển đổi
sớm
Nhóm chuyển
đổi muộn
Thành công
(%) 29 (93,5%) 26 (86,7%) 23 (92%)
Thất bại (%) 2 (6,5%) 4 (13,3%) 2 (8%)
Bảng 6 trình bày kết quả điều trị của 3 nhóm
bệnh nhân. Hiệu quả điều trị ở nhóm bệnh nhân
được chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh
khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chỉ tiêm IV (p = 0,367) và nhóm chuyển
đổi muộn (p = 0,528). Tương tự, không có khác
biệt có ý nghĩa về hiệu quả điều trị giữa nhóm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 357
chỉ tiêm IV và nhóm chuyển đổi đường dùng
muộn (p = 0,823). Kết quả thống kê chung không
cho thấy có sự khác nhau có ý nghĩa về hiệu quả
điều trị giữa 3 nhóm bệnh nhân (p = 0,629). Trong
số 8 trường hợp điều trị thất bại, 5 bệnh nhân
(62,5%) được chỉ định dùng Augmentin® gồm cả
4 bệnh nhân thuộc nhóm chuyển đổi sớm và 1
bệnh nhân thuộc nhóm chuyển đổi muộn. Bệnh
nhân có các dấu hiệu nhiễm trùng (Bảng 1) được
kéo dài thời gian sử dụng kháng sinh (6 trường
hợp) hay phẫu thuật lại (2 trường hợp).
Hiệu quả kinh tế của 3 phương pháp điều trị
được đánh giá dựa trên thời gian nằm viện, và
tổng chi phí kháng sinh. Kết quả được trình bày
trong bảng 7 dưới đây.
Bảng 7. Hiệu quả kinh tế giữa 3 nhóm điều trị
Nhóm IV (n=31) Nhóm chuyển đổi sớm (n=30)
Nhóm chuyển đổi
muộn (n=25) p
Số ngày nằm viện 5,77 ± 1,48 5,33 ± 1,30 5,44 ± 1,42 0,468
Chi phí kháng sinh IV 3 ngày đầu* 445,5 ± 318,8 438,9 ± 218,1 445,2 ± 167,0 0,426
Tổng chi phí kháng sinh* 782,4 ± 452,9 526,3 ± 189,3 739,2 ± 355,0 0,001
* Đơn vị 1.000 VND
Chi phí kháng sinh IV 3 ngày đầu tiên không
khác nhau giữa 3 nhóm điều trị (p = 0,426). Tuy
nhiên, tổng chi phí kháng sinh của nhóm chuyển
đổi sớm thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng
(p = 0,004) và nhóm chuyển đổi muộn (p =
0,001). Ngược lại, không có sự khác biệt có ý
nghĩa về chi phí kháng sinh giữa nhóm chứng
và nhóm chuyển đổi muộn (p = 0,980).
BÀN LUẬN
Theo y văn, E. coli và Bacteroides fragilis là 2
chủng vi khuẩn thường gặp nhất ở bệnh nhân
viêm ruột thừa(1,2). Với nhóm bệnh nhân VPMRT
tham gia vào nghiên cứu này, E. coli là chủng
thường gặp nhất trong số 5 loại vi khuẩn đã
được phân lập (54%). Ngoài ra, kết quả vi sinh
âm tính cũng chiếm một tỷ lệ khá cao (31%), có
thể do bệnh viện không tiến hành phân lập vi
khuẩn kỵ khí, do sai sót trong quá trình lấy mẫu
hoặc vi khuẩn đã chết trước khi cấy.
Tuy kết quả vi sinh không thể hiện sự có mặt
của Bacteroides fragilis, đa số bệnh nhân vẫn được
phối hợp kháng sinh để tiêu diệt chủng vi khuẩn
này (84,9%). Trong số 2 loại kháng sinh có phổ
tác động trên vi khuẩn kỵ khí, metronidazol
được ưu tiên chọn lựa (77,9%) có lẽ do ưu điểm
về giá thành (9.108 đồng/liều) so với 104.800
đồng/liều clindamycin. Trong số các β-lactam,
kháng sinh IV được dùng phổ biến nhất là
ceftazidim (41,7%) và kháng sinh PO được dùng
nhiều nhất là amoxicillin-clavulanat (65,5%).
Giữa 3 nhóm điều trị, tỷ lệ thất bại có vẻ cao
nhất ở nhóm chuyển đổi sớm so với nhóm
chứng và nhóm chuyển đổi muộn. Tuy nhiên,
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
(p = 0,629). Hơn nữa, 100% bệnh nhân điều trị
thất bại trong nhóm chuyển đổi sớm đều được
chỉ định Augmentin® PO, là loại kháng sinh
được dùng phổ biến nhất tại bệnh viện hiện nay
(65,5%). Theo ý kiến của nhóm nghiên cứu, một
trong những nguyên nhân dẫn đến điều trị thất
bại ở nhóm bệnh nhân này có thể do tăng tỷ lệ
đề kháng kháng sinh của vi khuẩn. Cần có
nghiên cứu sâu hơn về tình hình đề kháng
kháng sinh tại bệnh viện để xác nhận phỏng
đoán này.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có
sự khác biệt có ý nghĩa về hiệu quả điều trị giữa
3 phương pháp (p = 0,629). Kết quả này phù hợp
với các công trình nghiên cứu về chuyển đối
kháng sinh đã được công bố(4,5,8,9,10). Điều này gợi
ý chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh hậu
phẫu cho bệnh nhân VPMRT sau 3 ngày tiêm IV
có thể là một lựa chọn tối ưu, đặc biệt khi xét
đến hiệu quả về mặt kinh tế(10). Thật vậy, mặc dù
chi phí kháng sinh 3 ngày đầu tiên sau mổ ở 3
nhóm bệnh nhân tương đương nhau (p = 0,426),
tổng chi phí kháng sinh điều trị ở nhóm chuyển
đổi sớm giảm đáng kể so với nhóm chứng (p =
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 358
0,004) cũng như so với nhóm chuyển đổi muộn
(p = 0,001). Điều này gợi ý việc chuyển đổi
kháng sinh từ đường IV sang đường PO giúp
tiết kiệm rõ rệt chi phí điều trị cho bệnh nhân.
Tuy nhiên, thời gian nằm viện của nhóm bệnh
nhân được chuyển đổi kháng sinh sớm trong
nghiên cứu này không rút ngắn như kết quả đã
được công bố trên nhóm bệnh nhân viêm
phổi(9), có lẽ do nghiên cứu lần đầu được thực
hiện nên bệnh nhân vẫn được giữ lại bệnh viện
để theo dõi sau khi đã chuyển sang dùng kháng
sinh PO.
Một hạn chế của đề tài là trong thời gian
ngắn, chúng tôi chưa có điều kiện để chọn lựa
nhiều bệnh nhân cũng như sắp xếp một cách
hoàn toàn ngẫu nhiên bệnh nhân vào từng
nhóm điều trị. Tuy nhiên, với những kết quả thu
được, chúng tôi sơ bộ kết luận việc chuyển đổi
sớm (sau 3 ngày IV) đường dùng kháng sinh
hậu phẫu cho bệnh nhân VPMRT cho hiệu quả
cao tương đương nhóm chỉ dùng đường tiêm
hay nhóm chuyển đổi muộn (sau hơn 4 ngày IV)
nhưng có hiệu quả kinh tế cao hơn.
KẾT LUẬN
Mặc dù vẫn còn một số hạn chế, nghiên cứu
sơ bộ này cho thấy chuyển đổi sớm đường dùng
kháng sinh hậu phẫu cho bệnh nhân VPMRT có
ưu điểm giảm chi phí sử dụng kháng sinh
nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả điều trị. Thực hiện
chuyển đổi sớm kháng sinh từ đường IV sang
đường PO có thể giúp giảm công việc chăm sóc
của đội ngũ nhân viên y tế cũng như góp phần
giảm tải cho bệnh viện. Cần thực hiện những
nghiên cứu với quy mô lớn hơn và trên nhiều
đối tượng bệnh nhân hơn, khắc phục được một
số nhược điểm của nghiên cứu này để kiểm
chứng và xác nhận các kết quả sơ bộ vừa thu
được. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn muốn đề xuất
nên ưu tiên chuyển đổi sớm đường dùng kháng
sinh hậu phẫu kết hợp theo dõi chặt chẽ bệnh
nhân do những ưu điểm về tính kinh tế của
phác đồ này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bennion RS et al. The bacteriology of gengrenous and
perforated appendicitis-revisited. Ann Surg, 211 (2): 165-171.
(1990).
2. Berger D.H., Jaffe B.M. The appendix. In: F. Brunicardi C.
(eds). Schwartz’s principles of surgery, 9th edition, McGraw-
Hill, Inc., New York (ebook). (2010).
3. Bickell NA et al. How time affects the risk of rupture in
appendicitis. J Am Coll Surg, 202 (3): 401-406. (2006).
4. Fischer M.A. et al. Conversion from intravenous to oral
medications. Arch Intern Med, 163: 2585-2589. (2003).
5. Flamaing J. et al. Sequential therapy with cefuroxime and
cefuroxime-axetil for community-acquired lower respiratory
tract infection in the oldest old. Aging Clin Exp Res, 20: 81-86.
(2008).
6. Kuper K.M. Intravenous to oral therapy conversion. In:
Murdaugh L.B. (eds). Competence Assesment tools for
Health-System Pharmacies, 4th edition, pp 347-360. American
Society of Health-System Pharmacists, Inc., Bethesda. (2008).
7. McLaughlin C.M. et al. Pharmacy-implemented guidelines on
switching from intravenous to oral antibiotics: an intervention
study. Q J Med, 98: 745-752. (2009).
8. Mertz D. et al. Outcomes of early switching from intravenous
to oral antibiotics on medical wards. Journal of Antimicrobial
Chemotherapy, 64: 188-199. (2009).
9. Oosteheert J.J. et al. Effectiveness of early switch from
intravenous to oral antibiotics in severe community acquired
pneumoniae: multicenter randomised trial. BMJ, 333:1193.
(2006).
10. Sevinç F. et al. Early Switch from intravenous to oral
antibiotics: guidelines and implementation in a large teaching
hospital. Journal of Antimicrobial Chemotherapy, 43: 601 - 606.
(1999).