Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 353
ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ HIỆU QUẢ CHUYỂN ĐỔI SỚM 
 KHÁNG SINH HẬU PHẪU TỪ ĐƯỜNG TIÊM SANG ĐƯỜNG UỐNG 
TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM PHÚC MẠC RUỘT THỪA 
Đoàn Ngọc Ý Thi*, Võ Thị Kiều Quyên**, Nguyễn Thị Mai Hoàng*, Nguyễn Tuấn Dũng* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá sơ bộ hiệu quả điều trị và kinh tế của phương pháp chuyển đổi sớm kháng sinh hậu 
phẫu IV - PO trên bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa (VPMRT). 
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, cắt ngang từ tháng 4 - 7/2010. So sánh hiệu quả điều trị, thời gian 
nằm viện và chi phí sử dụng kháng sinh giữa 3 nhóm bệnh nhân VPMRT: nhóm chứng chỉ dùng kháng sinh IV, 
nhóm chuyển đổi sớm (PO sau 3 ngày IV) và nhóm chuyển đổi muộn (PO sau > 4 ngày IV). 
Kết quả: 86 bệnh nhân tham gia nghiên cứu được phân thành 3 nhóm: nhóm chứng (31 bệnh nhân), nhóm 
chuyển đổi sớm (30 bệnh nhân) và nhóm chuyển đổi muộn (25 bệnh nhân). Không có sự khác biệt về hiệu quả 
điều trị giữa 3 nhóm (p = 0,629). Tuy thời gian nằm viện không khác biệt giữa các nhóm nghiên cứu (p = 0,468), 
chi phí kháng sinh giảm rõ rệt ở nhóm bệnh nhân chuyển đổi sớm so với nhóm chứng (p = 0,004) và nhóm 
chuyển đổi muộn (p = 0,001). 
Kết luận: Chuyển đổi sớm kháng sinh hậu phẫu là một lựa chọn tốt cho cả bệnh nhân lẫn đội ngũ điều trị vì 
không làm giảm hiệu quả điều trị nhưng lại giảm chi phí sử dụng kháng sinh, từ đó có thể góp phần giảm chi phí 
điều trị. 
Từ khóa: Chuyển đổi kháng sinh IV-PO; viêm phúc mạc; hiệu quả; kinh tế. 
ABSTRACT 
PRELIMINARY REPORT ABOUT THE EFFICACY OF EARLY SWITCH 
 FROM INTRAVENOUS TO ORAL ANTIBIOTIC IN POST-APPENDECTOMY PATIENTS 
WITH PERITONITIS COMPLICATION 
Doan Ngoc Y Thi, Vo Thi Kieu Quyen, Nguyen Thi Mai Hoang, Nguyen Tuan Dung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh* Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 353 - 358 
Objective: To preliminarily evaluate the efficacy and antibiotic cost of early switching from IV to oral 
antibiotic in post-appendectomy patients with peritonitis complication. 
Methods: A 3-month prospective, cross-sectional study. We compared the efficacy, length of hospital stay 
and antibiotic cost among 3 groups of appendicitis-induced peritonitis patients: control (IV antibiotic only), early 
switching (PO antibiotic after 3-day IV) and late switching (PO antibiotic after more than 4-day IV). 
Results: 86 patients included in this study were divided into 3 groups: control (31 patients), early switching 
(30 patients) and late switching (25 patients). We did not find any difference in therapeutic efficacy among the 3 
groups (p = 0.692). Although the length of hospital stay did not significantly change (p = 0.468), the antibiotic 
cost was markedly reduced in the early switching group compared to that of the control group (p = 0.004) as well 
as the late switching group (p = 0.001). 
Conclusions: Early switching from IV to oral antibiotic is a best choice for post-operative patients as this 
* Bộ môn Dược lâm sàng - Khoa Dược - Đại học Y Dược TPHCM 
** Khoa Dược - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thị Mai Hoàng ĐT: 01656599822 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 354 
method can ensure the therapeutic efficacy with reduced antibiotic cost, and therefore reduced therapeutic cost. 
Keywords: IV-PO switch antibiotics; peritonitis; efficacy; economic. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Kháng sinh là một trong những thuốc được 
sử dụng nhiều nhất tại các khoa phòng điều trị 
trong bệnh viện, đặc biệt là các khoa phẫu thuật. 
Vì vậy, sử dụng kháng sinh hợp lý và kinh tế 
luôn là mối quan tâm, trăn trở của đội ngũ nhân 
viên y tế. 
Viêm ruột thừa là bệnh lý thường gặp nhất 
trong cấp cứu ngoại khoa và can thiệp phẫu 
thuật cắt bỏ ruột thừa sớm trong vòng 24 giờ là 
phương pháp hiệu quả nhất để điều trị bệnh 
này(2,3). Tuy nhiên, khi bệnh nhân đã có biến 
chứng viêm phúc mạc, việc điều trị trở nên phức 
tạp hơn, đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa ngoại 
và nội khoa(2). Đối với các bệnh nhân này, điều 
trị kháng sinh hậu phẫu từ 7-10 ngày là cần thiết 
để chống nhiễm trùng ổ bụng do các vi khuẩn từ 
vùng ruột thừa viêm, thường gặp nhất là 
Escherichia coli và Bacteroides fragilis(1,2). 
Đường sử dụng thuốc thích hợp cho bệnh 
nhân hậu phẫu là tiêm tĩnh mạch (IV). Tuy 
nhiên, khi bệnh nhân đã có dấu hiệu lâm sàng 
cải thiện và có thể ăn uống được, chuyển đổi 
đường dùng kháng sinh từ tiêm (IV) sang uống 
(PO) đem lại nhiều lợi ích cho cả bệnh nhân lẫn 
đội ngũ nhân viên y tế. Thật vậy, nhiều công 
trình đã được công bố về chuyển đổi kháng sinh 
IV sang PO cho thấy việc chuyển đổi không làm 
giảm hiệu quả điều trị, an toàn cho bệnh 
nhân(4,5,8,9,10) nhưng cải thiện hiệu quả kinh tế do 
làm giảm thời gian nằm viện(9) và chi phí điều 
trị(4,10). Tuy nhiên, theo hiểu biết của chúng tôi, 
hiện chưa có nghiên cứu đánh giá hiệu quả 
chuyển đổi kháng sinh trên nhóm bệnh nhân 
hậu phẫu nào đã được công bố tại Việt Nam. 
Nghiên cứu “Đánh giá sơ bộ hiệu quả 
chuyển đổi sớm kháng sinh hậu phẫu từ IV sang 
PO trên bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa” 
được thực hiện tại Bệnh viện Nhân Dân Gia 
Định – Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng 
thời gian từ tháng 4 – 6/2010 nhằm cung cấp kết 
quả sơ bộ về hiệu quả và tính kinh tế của việc 
chuyển đổi kháng sinh hậu phẫu. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng và thời gian nghiên cứu 
Bệnh nhân viêm phúc mạc ruột thừa đang 
điều trị tại khoa Ngoại Tiêu hóa và Ngoại Niệu 
của bệnh viện Nhân Dân Gia Định trong thời 
gian từ tháng 4/2010 đến tháng 7/2010. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Bệnh nhân sau phẫu thuật cắt ruột thừa nội 
soi tại bệnh viện thỏa mãn các điều kiện sau: 
Được chẩn đoán xác định viêm phúc mạc 
ruột thừa (VPMRT). 
Tuổi từ 16-65. 
Đạt các tiêu chuẩn chuyển đổi kháng sinh 
vào ngày thứ 3 sau phẫu thuật:[9,6,10,7] 
Hệ tiêu hóa tốt – ăn uống được, không nôn 
mửa, đã trung tiện được. 
Không sốt trong vòng 24 giờ trước khi 
chuyển kháng sinh. 
Tổng trạng ổn định (nhịp tim, nhịp thở, 
huyết áp bình thường). 
Triệu chứng lâm sàng đang cải thiện: vết mổ 
khô, không có dấu hiệu nhiễm trùng (xem Bảng 
1), còn đau ít, dẫn lưu ít dịch và dịch dẫn lưu 
không đục. 
Bảng 1. Chỉ tiêu đánh giá nhiễm trùng 
 Dấu hiệu nhiễm trùng* 
Nhiệt độ từ 38oC trở lên hay từ 36oC trở xuống.
Nhịp thở trên 20 nhịp/phút. 
Nhịp tim hơn 90 nhịp/phút. 
Lâm sàng
Vết mổ có mủ hoặc chảy nước. 
Bạch cầu cao hơn 12.000/mm3 hay thấp hơn 
4.000/mm3 hay (loại trừ trường hợp bạch cầu 
thấp do dùng thuốc corticoid) 
Cận lâm 
sàng 
Siêu âm có hình ảnh của dịch ổ bụng. 
* Bệnh nhân được xem là bị nhiễm trùng khi có từ 2 dấu 
hiệu trở lên. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân đái tháo đường. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 355
Phụ nữ có thai hay cho con bú. 
Bệnh nhân viêm gan. 
Bệnh nhân được thực hiện các phẫu thuật 
khác trong thời gian nằm viện. 
Bệnh nhân suy giảm miễn dịch: ung thư, 
HIV-AIDS 
Không đủ dữ liệu để đánh giá (không đến 
tái khám theo hẹn, không tuân thủ điều trị) 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiền cứu, cắt ngang. 
Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu được 
phân thành 3 nhóm điều trị theo bảng 2. 
Bảng 2. Thiết kế nghiên cứu 
Nhóm 
β-lactam IV 
(ngày sử 
dụng) 
Chuyển đổi 
β-lactam PO 
(ngày sử 
dụng) 
Chứng > 4 Không 0 
Chuyển đổi sớm 3 Có 3-5 
Chuyển đổi muộn > 4 Có 3-5 
Biến số cần thu thập 
Đặc điểm bệnh nhân: tuổi, giới tính. 
Đặc điểm điều trị: kết quả cấy vi sinh, loại 
kháng sinh được sử dụng, chi phí kháng sinh, 
thời gian nằm viện, hiệu quả điều trị. 
Hiệu quả điều trị được đánh giá dựa trên các 
dấu hiệu nhiễm trùng (Bảng 1). Bệnh nhân có từ 
2 dấu hiệu nhiễm trùng trở lên được đánh giá là 
thất bại với điều trị. 
Xử lý số liệu 
Số liệu được xứ lý bằng phần mềm SPSS 13.0 
với độ tin cậy 95%. Dữ liệu được trình bày dưới 
dạng trung bình (± độ lệch chuẩn). Để so sánh 
các biến định lượng, chúng tôi dùng test 
Kruskal-Wallis (so sánh 3 nhóm) hay test Mann-
Whitney (so sánh 2 nhóm). Test chi bình phương 
(χ2) được dùng để so sánh các tỷ lệ. Kết quả 
p < 0,05 được xem là khác biệt có ý nghĩa. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 4 đến tháng 7/2010, có 123 bệnh 
nhân được chẩn đoán xác định viêm phúc mạc 
ruột thừa tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định. 
Trong đó, 86 bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn mẫu 
được phân bố vào 3 nhóm nghiên cứu: nhóm 
chứng, nhóm chuyển đổi sớm và nhóm chuyển 
đổi muộn (Hình 1). 
Hình 1. Phân bố nhóm nghiên cứu 
Các bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu có 
tuổi trung bình là 34,95 ± 12,96, tỷ lệ nam/nữ là 
0,95. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về đặc 
điểm dân số giữa 3 nhóm khảo sát (Bảng 3). 
Loại (n = 37) 
Suy giảm miễn dịch ( n = 4) 
Đái tháo đường (n = 4 ) 
Phẫu thuật ≥ 2 lần (n = 1 )
Tuổi > 65 (n = 10 ) 
Sốt (n = 6) 
Nhóm chứng 
(n = 31) 
Nhóm chuyển đổi sớm 
(n = 30) 
Đạt tiêu chuẩn chọn mẫu 
(n = 86)
Phụ nữ có thai (n =3) 
Nhóm chuyển đổi muộn 
(n = 25) 
Viêm phúc mạc ruột thừa 
(n = 123)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 356 
Bảng 3. Đặc điểm dân số của 3 nhóm bệnh nhân 
Nhóm chứng 
(n=31) 
Nhóm 
chuyển đổi 
sớm (n=30) 
Nhóm 
chuyển đổi 
muộn (n=25)
p 
Tuổi 39,71 ± 15,37 31,57 ± 11,60 33,12 ± 9,51 0,083
Nam/ 
Nữ 14/17 14/16 14/11 0,692
Bảng 4. Các loại vi khuẩn phân lập từ dịch ổ bụng 
bệnh nhân VPMRT 
Loại vi khuẩn Tỷ lệ % 
Không mọc 30,8% 
E. coli/ ESBL (-) 48,7% 
E. coli/ ESBL (+) 5,1% 
Klebsiella spp./ ESBL (-) 5,1% 
Proteus miragilis/ ESBL (-) 7,7% 
Pantoea agglomeram/ ESBL (-) 2,6% 
ESBL: Extended Spectrum Beta-Lactamase (β-lactamase 
phổ rộng) 
Tất cả bệnh nhân đều được làm xét nghiệm 
vi sinh với mẫu bệnh phẩm là dịch ổ bụng được 
lấy trong quá trình phẫu thuật. Kết quả vi sinh 
được trình bày trong bảng 4. Loại vi khuẩn 
thường gặp nhất tại vùng viêm là E. coli không 
tiết β-lactamase phổ rộng (49%). Do bệnh viện 
không xét nghiệm tìm vi khuẩn kỵ khí nên kết 
quả nghiên cứu không cho biết thông tin này. 
Kháng sinh được chỉ định cho bệnh nhân 
tham gia nghiên cứu được tóm tắt trong bảng 5. 
Khởi đầu điều trị, đa số bệnh nhân (84,9%) 
được chỉ định phối hợp 1 loại β-lactam IV 
(ceftriaxon; amoxicillin-clavulanat; ampicillin-
sulbactam hay ceftazidim) và 1 loại kháng sinh 
IV có phổ tác động trên vi khuẩn kỵ khí 
(metronidazol hay clindamycin). Ceftazidim là 
β-lactam được sử dụng nhiều nhất (41,7%), kế 
đến là amoxicillin-clavulanat (34,9%). Kháng 
sinh trị nhiễm trùng kỵ khí được sử dụng phổ 
biến nhất là metronidazol (77,9%). Khi bệnh 
nhân đủ điều kiện dùng thuốc đường uống, 
kháng sinh kỵ khí sẽ được chuyển sang loại PO 
tương ứng (Bảng 5). 
Bảng 5. Kháng sinh được chỉ định cho bệnh nhân VPMRT tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định 
Nhóm kháng sinh Kháng sinh Đường dùng Liều dùng 
IV 1,5g x 2 lần/ngày 
Ampicillin - Sulbactam (Unasyn®) 
PO 375mg x 2 lần/ngày 
Amoxicillin – Clavulanat (Augmentin®) IV/ PO 1g x 2 lần/ngày 
Ceftriaxon (Ceftriaxon®) IV 1g x 2 lần/ngày 
Ceftazidim (Fortum® / Ceftazidim®) IV 1g x 2 lần/ngày 
Cefuroxim (Zinnat®) PO 500mg x 2 lần/ngày 
Cefixim (Mecefix®) PO 100mg x 2 lần/ngày 
β-lactam 
Cefdinir (Re-tid®) PO 300mg x 2 lần/ngày 
5-nitro imidazol Metronidazol (Flagyl®) IV/ PO 1 - 1,5g/ngày 
Lincosamid Clindamycin (Dalacin-C®) IV/ PO 0,6g x 2 lần/ngày 
Sau thời gian đầu dùng thuốc đường IV, 
bệnh nhân nằm trong nhóm chuyển đổi sẽ được 
chỉ định 1 loại β-lactam PO là amoxicillin-
clavulanat; ampicillin-sulbactam; cefuroxim; 
cefdinir hay cefixim (Bảng 5), trong đó 
amoxicillin-clavulanat được chỉ định nhiều nhất 
(65,5%). Ngoài ra, chúng tôi cũng ghi nhận 1 
trường hợp dùng cefaclor (Verceft®), 4 trường 
hợp dùng cefpodoxim (Podoxime®) và 1 trường 
hợp bác sĩ chỉ định ciprofloxacin (Cipro-bay®). 
Bảng 6. Hiệu quả điều trị của 3 nhóm khảo sát 
Kết quả điều 
trị Nhóm IV 
Nhóm 
chuyển đổi 
sớm 
Nhóm chuyển 
đổi muộn 
Thành công 
(%) 29 (93,5%) 26 (86,7%) 23 (92%) 
Thất bại (%) 2 (6,5%) 4 (13,3%) 2 (8%) 
Bảng 6 trình bày kết quả điều trị của 3 nhóm 
bệnh nhân. Hiệu quả điều trị ở nhóm bệnh nhân 
được chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm chỉ tiêm IV (p = 0,367) và nhóm chuyển 
đổi muộn (p = 0,528). Tương tự, không có khác 
biệt có ý nghĩa về hiệu quả điều trị giữa nhóm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 357
chỉ tiêm IV và nhóm chuyển đổi đường dùng 
muộn (p = 0,823). Kết quả thống kê chung không 
cho thấy có sự khác nhau có ý nghĩa về hiệu quả 
điều trị giữa 3 nhóm bệnh nhân (p = 0,629). Trong 
số 8 trường hợp điều trị thất bại, 5 bệnh nhân 
(62,5%) được chỉ định dùng Augmentin® gồm cả 
4 bệnh nhân thuộc nhóm chuyển đổi sớm và 1 
bệnh nhân thuộc nhóm chuyển đổi muộn. Bệnh 
nhân có các dấu hiệu nhiễm trùng (Bảng 1) được 
kéo dài thời gian sử dụng kháng sinh (6 trường 
hợp) hay phẫu thuật lại (2 trường hợp). 
Hiệu quả kinh tế của 3 phương pháp điều trị 
được đánh giá dựa trên thời gian nằm viện, và 
tổng chi phí kháng sinh. Kết quả được trình bày 
trong bảng 7 dưới đây. 
Bảng 7. Hiệu quả kinh tế giữa 3 nhóm điều trị 
 Nhóm IV (n=31) Nhóm chuyển đổi sớm (n=30) 
Nhóm chuyển đổi 
muộn (n=25) p 
Số ngày nằm viện 5,77 ± 1,48 5,33 ± 1,30 5,44 ± 1,42 0,468 
Chi phí kháng sinh IV 3 ngày đầu* 445,5 ± 318,8 438,9 ± 218,1 445,2 ± 167,0 0,426 
Tổng chi phí kháng sinh* 782,4 ± 452,9 526,3 ± 189,3 739,2 ± 355,0 0,001 
* Đơn vị 1.000 VND
Chi phí kháng sinh IV 3 ngày đầu tiên không 
khác nhau giữa 3 nhóm điều trị (p = 0,426). Tuy 
nhiên, tổng chi phí kháng sinh của nhóm chuyển 
đổi sớm thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng 
(p = 0,004) và nhóm chuyển đổi muộn (p = 
0,001). Ngược lại, không có sự khác biệt có ý 
nghĩa về chi phí kháng sinh giữa nhóm chứng 
và nhóm chuyển đổi muộn (p = 0,980). 
BÀN LUẬN 
Theo y văn, E. coli và Bacteroides fragilis là 2 
chủng vi khuẩn thường gặp nhất ở bệnh nhân 
viêm ruột thừa(1,2). Với nhóm bệnh nhân VPMRT 
tham gia vào nghiên cứu này, E. coli là chủng 
thường gặp nhất trong số 5 loại vi khuẩn đã 
được phân lập (54%). Ngoài ra, kết quả vi sinh 
âm tính cũng chiếm một tỷ lệ khá cao (31%), có 
thể do bệnh viện không tiến hành phân lập vi 
khuẩn kỵ khí, do sai sót trong quá trình lấy mẫu 
hoặc vi khuẩn đã chết trước khi cấy. 
Tuy kết quả vi sinh không thể hiện sự có mặt 
của Bacteroides fragilis, đa số bệnh nhân vẫn được 
phối hợp kháng sinh để tiêu diệt chủng vi khuẩn 
này (84,9%). Trong số 2 loại kháng sinh có phổ 
tác động trên vi khuẩn kỵ khí, metronidazol 
được ưu tiên chọn lựa (77,9%) có lẽ do ưu điểm 
về giá thành (9.108 đồng/liều) so với 104.800 
đồng/liều clindamycin. Trong số các β-lactam, 
kháng sinh IV được dùng phổ biến nhất là 
ceftazidim (41,7%) và kháng sinh PO được dùng 
nhiều nhất là amoxicillin-clavulanat (65,5%). 
Giữa 3 nhóm điều trị, tỷ lệ thất bại có vẻ cao 
nhất ở nhóm chuyển đổi sớm so với nhóm 
chứng và nhóm chuyển đổi muộn. Tuy nhiên, 
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê 
(p = 0,629). Hơn nữa, 100% bệnh nhân điều trị 
thất bại trong nhóm chuyển đổi sớm đều được 
chỉ định Augmentin® PO, là loại kháng sinh 
được dùng phổ biến nhất tại bệnh viện hiện nay 
(65,5%). Theo ý kiến của nhóm nghiên cứu, một 
trong những nguyên nhân dẫn đến điều trị thất 
bại ở nhóm bệnh nhân này có thể do tăng tỷ lệ 
đề kháng kháng sinh của vi khuẩn. Cần có 
nghiên cứu sâu hơn về tình hình đề kháng 
kháng sinh tại bệnh viện để xác nhận phỏng 
đoán này. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có 
sự khác biệt có ý nghĩa về hiệu quả điều trị giữa 
3 phương pháp (p = 0,629). Kết quả này phù hợp 
với các công trình nghiên cứu về chuyển đối 
kháng sinh đã được công bố(4,5,8,9,10). Điều này gợi 
ý chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh hậu 
phẫu cho bệnh nhân VPMRT sau 3 ngày tiêm IV 
có thể là một lựa chọn tối ưu, đặc biệt khi xét 
đến hiệu quả về mặt kinh tế(10). Thật vậy, mặc dù 
chi phí kháng sinh 3 ngày đầu tiên sau mổ ở 3 
nhóm bệnh nhân tương đương nhau (p = 0,426), 
tổng chi phí kháng sinh điều trị ở nhóm chuyển 
đổi sớm giảm đáng kể so với nhóm chứng (p = 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 358 
0,004) cũng như so với nhóm chuyển đổi muộn 
(p = 0,001). Điều này gợi ý việc chuyển đổi 
kháng sinh từ đường IV sang đường PO giúp 
tiết kiệm rõ rệt chi phí điều trị cho bệnh nhân. 
Tuy nhiên, thời gian nằm viện của nhóm bệnh 
nhân được chuyển đổi kháng sinh sớm trong 
nghiên cứu này không rút ngắn như kết quả đã 
được công bố trên nhóm bệnh nhân viêm 
phổi(9), có lẽ do nghiên cứu lần đầu được thực 
hiện nên bệnh nhân vẫn được giữ lại bệnh viện 
để theo dõi sau khi đã chuyển sang dùng kháng 
sinh PO. 
Một hạn chế của đề tài là trong thời gian 
ngắn, chúng tôi chưa có điều kiện để chọn lựa 
nhiều bệnh nhân cũng như sắp xếp một cách 
hoàn toàn ngẫu nhiên bệnh nhân vào từng 
nhóm điều trị. Tuy nhiên, với những kết quả thu 
được, chúng tôi sơ bộ kết luận việc chuyển đổi 
sớm (sau 3 ngày IV) đường dùng kháng sinh 
hậu phẫu cho bệnh nhân VPMRT cho hiệu quả 
cao tương đương nhóm chỉ dùng đường tiêm 
hay nhóm chuyển đổi muộn (sau hơn 4 ngày IV) 
nhưng có hiệu quả kinh tế cao hơn. 
KẾT LUẬN 
Mặc dù vẫn còn một số hạn chế, nghiên cứu 
sơ bộ này cho thấy chuyển đổi sớm đường dùng 
kháng sinh hậu phẫu cho bệnh nhân VPMRT có 
ưu điểm giảm chi phí sử dụng kháng sinh 
nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả điều trị. Thực hiện 
chuyển đổi sớm kháng sinh từ đường IV sang 
đường PO có thể giúp giảm công việc chăm sóc 
của đội ngũ nhân viên y tế cũng như góp phần 
giảm tải cho bệnh viện. Cần thực hiện những 
nghiên cứu với quy mô lớn hơn và trên nhiều 
đối tượng bệnh nhân hơn, khắc phục được một 
số nhược điểm của nghiên cứu này để kiểm 
chứng và xác nhận các kết quả sơ bộ vừa thu 
được. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn muốn đề xuất 
nên ưu tiên chuyển đổi sớm đường dùng kháng 
sinh hậu phẫu kết hợp theo dõi chặt chẽ bệnh 
nhân do những ưu điểm về tính kinh tế của 
phác đồ này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bennion RS et al. The bacteriology of gengrenous and 
perforated appendicitis-revisited. Ann Surg, 211 (2): 165-171. 
(1990). 
2. Berger D.H., Jaffe B.M. The appendix. In: F. Brunicardi C. 
(eds). Schwartz’s principles of surgery, 9th edition, McGraw-
Hill, Inc., New York (ebook). (2010). 
3. Bickell NA et al. How time affects the risk of rupture in 
appendicitis. J Am Coll Surg, 202 (3): 401-406. (2006). 
4. Fischer M.A. et al. Conversion from intravenous to oral 
medications. Arch Intern Med, 163: 2585-2589. (2003). 
5. Flamaing J. et al. Sequential therapy with cefuroxime and 
cefuroxime-axetil for community-acquired lower respiratory 
tract infection in the oldest old. Aging Clin Exp Res, 20: 81-86. 
(2008). 
6. Kuper K.M. Intravenous to oral therapy conversion. In: 
Murdaugh L.B. (eds). Competence Assesment tools for 
Health-System Pharmacies, 4th edition, pp 347-360. American 
Society of Health-System Pharmacists, Inc., Bethesda. (2008). 
7. McLaughlin C.M. et al. Pharmacy-implemented guidelines on 
switching from intravenous to oral antibiotics: an intervention 
study. Q J Med, 98: 745-752. (2009). 
8. Mertz D. et al. Outcomes of early switching from intravenous 
to oral antibiotics on medical wards. Journal of Antimicrobial 
Chemotherapy, 64: 188-199. (2009). 
9. Oosteheert J.J. et al. Effectiveness of early switch from 
intravenous to oral antibiotics in severe community acquired 
pneumoniae: multicenter randomised trial. BMJ, 333:1193. 
(2006). 
10. Sevinç F. et al. Early Switch from intravenous to oral 
antibiotics: guidelines and implementation in a large teaching 
hospital. Journal of Antimicrobial Chemotherapy, 43: 601 - 606. 
(1999).