Đánh giá sự phát triển thị trường vốn Việt Nam: Thực tiễn và nhận định rủi ro

Bài nghiên cứu sử dụng nguồn số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) giai đoạn 2000-2017, áp dụng phương pháp phân tích mô tả định tính nhằm đánh giá tình hình phát triển thị trường vốn Việt Nam trong mối quan hệ với thị trường các nước ASEAN. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy thị trường vốn của Việt Nam với nền tảng dựa vào hệ thống ngân hàng còn kém phát triển so với các nước Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines và Thái Lan, mặc dù độ sâu tài chính tương đối cao. Cấu trúc thị trường vốn Việt Nam chưa thực sự hoàn chỉnh, thể hiện (i) Thị trường tín dụng thông qua các tổ chức tín dụng vẫn chiếm vị trí quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ngân hàng Việt Nam cũng có quy mô nhỏ và sức khỏe của hệ thống ngân hàng cũng kém hơn so với các nước phát triển trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn ít và quy mô nhỏ bé, thị phần không đáng kể; (ii) Mức độ ổn định tài chính của Việt Nam thấp hơn so với các nước AEC; (iii) Quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ so với các nước trong khu vực nhưng lại có mức độ rủi ro cao hơn; (iv) Thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa đủ mạnh để khai thông nguồn vốn trung dài hạn cho nền kinh tế, tồn tại rủi ro kỳ hạn. Số lượng nhà đầu tư chưa nhiều, thiếu nhà tạo lập thị trường.

pdf14 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sự phát triển thị trường vốn Việt Nam: Thực tiễn và nhận định rủi ro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
191 ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VỐN VIỆT NAM: THỰC TIỄN VÀ NHẬN ĐỊNH RỦI RO TS. Trần Hùng Sơn Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG-HCM Tóm tắt: Bài nghiên cứu sử dụng nguồn số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) giai đoạn 2000-2017, áp dụng phương pháp phân tích mô tả định tính nhằm đánh giá tình hình phát triển thị trường vốn Việt Nam trong mối quan hệ với thị trường các nước ASEAN. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy thị trường vốn của Việt Nam với nền tảng dựa vào hệ thống ngân hàng còn kém phát triển so với các nước Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines và Thái Lan, mặc dù độ sâu tài chính tương đối cao. Cấu trúc thị trường vốn Việt Nam chưa thực sự hoàn chỉnh, thể hiện (i) Thị trường tín dụng thông qua các tổ chức tín dụng vẫn chiếm vị trí quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ngân hàng Việt Nam cũng có quy mô nhỏ và sức khỏe của hệ thống ngân hàng cũng kém hơn so với các nước phát triển trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn ít và quy mô nhỏ bé, thị phần không đáng kể; (ii) Mức độ ổn định tài chính của Việt Nam thấp hơn so với các nước AEC; (iii) Quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ so với các nước trong khu vực nhưng lại có mức độ rủi ro cao hơn; (iv) Thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa đủ mạnh để khai thông nguồn vốn trung dài hạn cho nền kinh tế, tồn tại rủi ro kỳ hạn. Số lượng nhà đầu tư chưa nhiều, thiếu nhà tạo lập thị trường. Từ khóa. Thị trƣờng vốn, Thị trƣờng tín dụng, Thị trƣờng chứng khoán, Thị trƣờng trái phiếu, Việt Nam, AEC 1. Giới thiệu Việt Nam là một thành viên của AEC và đã ký hiệp định CPTPP. AEC đƣợc thành lập vào ngày 31/12/2015, theo đó sẽ hình thành một thị trƣờng đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, đƣợc xây dựng thông qua 5 yếu tố chính là (i) Tự do lƣu chuyển hàng hoá; (ii) Tự do lƣu chuyển dịch vụ; (iii) Tự do lƣu chuyển đầu tƣ; (iv) Tự do lƣu chuyển vốn và (v) Tự do lƣu chuyển lao động có tay nghề. Nhƣ vậy, việc phát triển thị trƣờng vốn của Việt Nam cũng sẽ bị tác động mạnh bởi sự kiện hình thành AEC và tham gia hiệp định CPTPP. 192 Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày một số thị trƣờng bộ phận chủ yếu của thị trƣờng vốn Việt Nam bao gồm thị trƣờng tín dụng, thị trƣờng chứng khoán và thị trƣờng trái phiếu. Để thấy đƣợc vị trí của thị trƣờng vốn Việt Nam trong AEC, cũng những mức độ ổn định và rủi ro của thị trƣờng vốn Việt Nam, bài viết sẽ so sánh từng thị trƣờng của Việt Nam với thị trƣờng của các nƣớc trong khối. Bài viết ngoài mục giới thiệu sẽ có ba phần chính gồm (1) Tổng quan về thị trƣờng vốn của Việt Nam trong mối quan hệ với các nƣớc trong AEC; (2) So sánh mức độ ổn định tài chính của thị trƣờng vốn Việt Nam với các nƣớc trong AEC; (3) Kết luận và hàm ý chính sách cho Việt Nam trong thời gian tới. 2. Đánh giá sự phát triển của thị trƣờng vốn Việt Nam 2.1. Thị trường tín dụng Với thị trƣờng tài chính phát triển chƣa cao, các công cụ tài chính chƣa phát triển, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế từ thị trƣờng chứng khoán còn khá nhỏ bé. Chính vì vậy mà hệ thống ngân hàng phải đảm đƣơng vai trò cung cấp nguồn vốn cho nền kinh tế Việt Nam. Giá trị tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam chiếm tỷ lệ 159%, cao nhất trong nhóm của các nƣớc ASEAN. Xét về giá trị tuyệt đối thì tổng giá trị tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam thấp hơn so với 4 quốc gia trong khối ASEAN có hệ thống ngân hàng phát triển nhƣ Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia (Lee C.L and Takagi, 2014). Tỷ lệ tín dụng do hệ thống ngân hàng cung cấp/GDP của Việt Nam có sự biến động nhiều: đã tăng rất nhanh từ mức 35% năm 2000 lên mức 125% năm 2010 và giảm xuống còn 97% vào năm 2013 sau đó tăng lên lại ở mức 124% vào năm 2016 (Bảng 1). Tỷ lệ tín dụng ngân hàng/GDP của Việt Nam ở mức cao so với phần lớn các nƣớc trong ASEAN (phần lớn các nƣớc này có tỷ lệ tín dụng ngân hàng/GDP thấp hơn 50%) và chỉ thấp hơn so với Singapore và bằng Malaysia. Theo Almekinders và cộng sự (2015), các quốc gia trong ASEAN có tỷ lệ tín dụng ngân hàng/GDP thấp sẽ hƣởng đƣợc nhiều lợi ích hơn trong quá trình hội nhập tài chính. Trong khi đó, đối với những nƣớc có tỷ lệ tăng trƣởng tín dụng cao nhƣng thiếu hệ thống giám sát, trong một vài trƣờng hợp có thể tác động tiêu cực đến sự ổn định vĩ mô của các quốc gia này. Kết quả nghiên cứu của Almekinders và cộng sự (2015) chứa đựng nhiều hàm ý cho Việt Nam, khi mà 193 Việt Nam là một nền kinh tế dựa vào tín dụng ngân hàng với nhiều bất ổn nhƣ: năng lực quản trị kém, tỷ lệ nợ xấu cao... Bảng 1. Tỷ lệ tín dụng từ hệ thống ngân hàng/GDP các nƣớc ASEAN (%) 2000 2010 2013 2014 2015 2016 Brunei 50 41 31 33 41 44 Cambodia 6 28 45 54 63 69 Indonesia 20 28 32 33 33 33 Lào 14 22 39 41 36 Malaysia 137 120 120 121 125 124 Myanmar - 5 13 16 18 22 Philippines 42 30 36 39 42 45 Singapore 96 130 127 132 130 133 Thái Lan 108 97 112 115 117 115 Việt Nam 35 125 97 100 112 124 Nguồn: indicators#. Truy cập ngày 03/4/2018. Các định chế tài chính phi ngân hàng chỉ chiếm 17% GDP và 8% tổng tài sản của các trung gian tài chính. Trong đó, các công ty tài chính có quy mô tƣơng đƣơng 6% GDP và 3% tổng tài sản các trung gian tài chính. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, loại hình trung gian tài chính phi ngân hàng duy nhất có ở hầu hết các quốc gia ASEAN, quy mô của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất khu vực. Các DNBH Việt Nam có quy mô tài sản 5,5 tỷ USD chiếm 2,2% tổng giá trị tài sản các định chế tài chính (Lee CL and Takagi, 2014). Tƣơng tự nhƣ vậy, tỷ lệ thâm nhập (tỷ lệ phí bảo hiểm/GDP) trong năm 2014 của Việt Nam là 1,23%. Nếu nhƣ so với các nƣớc trong khu vực nhƣ Malaysia: 4,3%; Philippines: 1,73%; Thái Lan: 5,54%; Singapore: 6%; Indonesia: 1.3% (Bảng 2), thì đây quả thực là một con số còn rất khiêm tốn. Theo nhận định của tổ chức xếp hạng tín dụng Moody‟s thì thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam vẫn đƣợc coi là một trong những thị trƣờng kém phát triển nhất nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực. 194 Bảng 2. Tỷ lệ phí bảo hiểm/GDP các nƣớc ASEAN (%) 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Brunei 0,86 0,65 0,64 0,72 0,34 Cambodia 0,17 0,18 0,20 0,22 0,25 0,12 Indonesia 1,47 1,55 1,59 1,30 0,96 0,89 Lào 0,35 0,43 0,70 0,72 0,42 0,42 Malaysia 4,47 4,21 4,27 4,35 4,30 2,85 Myanmar 0,06 0,00 0,00 0,00 Philippines 1,26 1,34 1,60 1,80 1,73 1,42 Singapore 5,03 5,24 5,11 5,52 6,06 5,56 Thái Lan 4,01 4,27 4,78 5,17 5,54 3,90 Việt Nam 1,31 1,20 1,15 1,19 1,23 2,00 Nguồn: https://datamarket.com. Truy cập ngày 03/4/2018 2.2. Thị trường chứng khoán Thị trƣờng chứng khoán cơ sở Thị trƣờng chứng khoán Việt Nam đánh dấu bƣớc phát triển mới vào ngày 20/7/2000, khi Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (TTGDCK TP. Hồ Chí Minh) chính thức khai trƣơng với chức năng chủ yếu là tổ chức giao dịch cổ phiếu, trái phiếu đủ điều kiện niêm yết giao dịch. Sau khi TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đi vào hoạt động đƣợc 3 năm, Chính phủ đã chỉ đạo UBCKNN sớm xây dựng TTGDCK Hà Nội. Trên tinh thần đó, Bộ Tài chính (UBCKNN) đã triển khai rất tích cực về các vấn đề cơ sở vật chất, nhân sự con ngƣời và hệ thống. Nhờ vậy, TTGDCK Hà Nội đã chính thức đƣợc ra đời vào ngày 8/3/2005. Quy mô vốn hóa TTCK có sự tăng trƣởng vƣợt bậc, tăng hàng nghìn lần so với thời kỳ đầu. Từ mốc ban đầu chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết với vốn hóa thị trƣờng chỉ đạt 986 tỷ đồng, chiếm 0,28% GDP vào năm 2000, đến năm 2017, TTCK Việt Nam đã có 727 công ty niêm yết trên 2 Sở GDCK và hơn 700 công ty đăng ký giao dịch trên UPCoM, quy mô niêm yết đã tăng 2.300 lần; vốn hóa thị trƣờng cổ phiếu tăng hơn 3.000 lần so với năm 2000. Giá trị dƣ nợ trái phiếu chiếm khoảng 24% GDP, mức vốn hóa thị trƣờng cổ phiếu đạt trên 74% GDP vào cuối năm 2017. Thị trƣờng chứng khoán ngày càng thu hút số lƣợng lớn sự tham gia của các nhà đầu tƣ (NĐT) trong và ngoài nƣớc. TTCK Việt Nam trở thành điểm đến 195 hấp dẫn đối với các NĐT nƣớc ngoài. Số lƣợng tài khoản NĐT đã không ngừng gia tăng, từ khoảng 3.000 tài khoản NĐT tham gia khi mới mở cửa thị trƣờng vào năm 2000, đạt 1,92 triệu tài khoản vào năm 2017, tăng 640 lần so với năm 2000; số lƣợng NĐT nƣớc ngoài cũng đã tăng 2,3 lần so với năm 2007, ƣớc tính huy động khoảng 17,2 tỷ USD vốn đầu tƣ gián tiếp góp phần làm tăng quy mô vốn đầu tƣ xã hội và thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Biểu đồ 2. Quy mô thị trƣờng chứng khoán Việt Nam Nguồn: Ủy ban Chứng khoán nhà nước Biểu đồ 3. Quy mô tài khoản nhà đầu tƣ (nghìn tài khoản) Nguồn: Ủy ban Chứng khoán nhà nước 196 Bảng 3 thể hiện giá trị vốn hóa thị trƣờng chứng khoán của 6 quốc gia trong khu vực ASEAN năm 2016. Quy mô TTCK Việt Nam (chỉ tính giá trị của Sở GDCK Hồ Chí Minh) vẫn còn rất hạn chế so với các quốc gia trong khu vực, giá trị vốn hóa chỉ bằng khoảng 1/10 Singapore và 1/4 Philippines. Việc tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN với các điều khoản buộc nhóm doanh nghiệp nhà nƣớc cạnh tranh bình đẳng với các khu vực khác (các tập đoàn, các công ty quốc doanh không còn các đặc quyền nhƣ trƣớc, do đó việc cổ phần hóa sẽ diễn ra thuận lợi hơn). Bảng 3: Vốn hóa các thị trƣờng chứng khoán chính của 6 quốc gia trong khu vực ASEAN năm 2016 Giá trị vốn hóa (Tỷ USD) Giá trị vốn hóa/GDP ( ) Việt Nam 66,4 32 Philippines 239,7 79 Indonesia 425,8 46 Thái Lan 433 106 Singapore 640,4 216 Malaysia 359,8 121 Nguồn: development-indicators#. Truy cập ngày 03/4/2018. Thị trƣờng chứng khoán phái sinh Thị trƣờng chứng khoán phái sinh mới chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8/2017 nhƣng đã chứng tỏ sức hấp dẫn với nhà đầu tƣ. Theo Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), trên thị trƣờng luôn duy trì 4 mã sản phẩm theo thông lệ quốc tế. Trong mỗi tháng đều có 1 mã sản phẩm đáo hạn vào ngày thứ Năm thứ ba của tháng và HNX đã niêm yết bổ sung sản phẩm thay thế vào ngày giao dịch tiếp theo. Nhìn chung, thị trƣờng chứng khoán phái sinh duy trì tốc độ tăng trƣởng đều đặn, với khối lƣợng giao dịch tháng sau cao hơn tháng trƣớc. Tính đến hết tháng 8/2018 với tổng khối lƣợng giao dịch đạt hơn 11 triệu hợp đồng tƣơng ứng với tổng giá trị giao dịch theo quy mô danh nghĩa hợp đồng đạt hơn 1.066 ngàn tỷ đồng. Khối lƣợng mở (OI) toàn thị trƣờng cũng tăng mạnh theo các tháng. Tính đến cuối phiên giao dịch tháng 8/2018, tổng khối lƣợng OI toàn thị trƣờng 197 đạt 16.477 hợp đồng, tăng gấp 5 lần so với thời điểm cuối tháng 9/2017. Số lƣợng tài khoản giao dịch phái sinh liên tục đƣợc mở, trung bình mỗi ngày có 150 tài khoản mới. Tính đến tháng 8/2017, đã có gần 40 ngàn tài khoản giao dịch phái sinh đƣợc mở. Tuy nhiên, hoạt động giao dịch tập trung chủ yếu ở các nhà đầu tƣ cá nhân trong nƣớc (chiếm hơn 97%), nhà đầu tƣ tổ chức trong nƣớc chỉ chiếm khoảng 3%, hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán chiếm khoảng 2% khối lƣợng giao dịch toàn thị trƣờng. Nhìn chung, kể từ khi đi vào hoạt động, TTCK phái sinh đã hoạt động an toàn, hiệu quả. Hạ tầng công nghệ phục vụ thị trƣờng, bao gồm hệ thống giao dịch, hệ thống thanh toán thị trƣờng, hệ thống công bố thông tin, vận hành thông suốt, ổn định và an toàn. 2.3. Thị trường trái phiếu Thị trƣờng trái phiếu (TTTP) Việt Nam bắt đầu hình thành từ giữa thập niên 1990, bằng việc Chính phủ phát hành một số đợt trái phiếu, công trái huy động vốn phục vụ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội. Đến nay, hoạt động của TTTP đã lớn mạnh cả về quy mô lẫn chiều sâu, phát huy đƣợc vai trò là kênh huy động vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế và các tổ chức, cá nhân; góp phần điều hòa, phân phối nguồn vốn trong nền kinh tế. Hiện nay, đã có 4 loại trái phiếu đƣợc phát hành và giao dịch trên thị trƣờng, gồm: trái phiếu chính phủ (TPCP) - do Kho bạc Nhà nƣớc (KBNN) phát hành; Trái phiếu đƣợc Chính phủ bảo lãnh - do 02 ngân hàng chính sách (Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội) và các doanh nghiệp đƣợc Chính phủ bảo lãnh phát hành; Trái phiếu chính quyền địa phƣơng - do một số địa phƣơng lớn nhƣ Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng Ninh phát hành; và trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) - do các DN thuộc mọi thành phần kinh tế phát hành. Hạ tầng giao dịch trái phiếu đã tiệm cận đƣợc với các nƣớc trong khu vực với việc niêm yết TPCP trên thị trƣờng chứng khoán tập trung (Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội – HNX), lƣu ký tập trung tại Trung tâm Lƣu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD), đấu thầu trái phiếu định kỳ và thời gian thanh toán T+1. Giao dịch trái phiếu tại HNX đã đƣợc liên kết với Bloomberg trong năm 2015, cho phép tự động hóa quy trình chuyển lệnh, nhập lệnh từ hệ thống Bloomberg về hệ thống giao dịch TPCP của HNX. Nhờ đó các nhà đầu tƣ dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm thông tin, đặt lệnh và giao dịch trái phiếu chỉ trên một màn hình HNX. 198 Ngoài ra, hệ thống chỉ báo thị trƣờng cũng dần đƣợc hoàn thiện. Bên cạnh hệ thống đƣờng cong lợi suất trái phiếu Chính phủ (Government Bond Yield Curve) đƣợc đƣa vào sử dụng từ 18/03/2013, Sở cũng đã thử nghiệm hệ thống chỉ số trái phiếu VN Government Bond Index và chính thức hoạt động từ 05/01/2015. Hai chỉ báo quan trọng này đều đƣợc đăng tải trên hai hãng thông tin quốc tế là Bloomberg và Reuters. Năm 2015 cũng là năm đánh dấu sự sự phát triển của thị trƣờng phái sinh TPCP. VSD và các thành viên liên quan đã triển khai xây dựng cơ sở pháp lý, hệ thống công nghệ, chuẩn bị các điều kiện khác cho thị trƣờng phái sinh TPCP nhằm đảm bảo hoạt động ổn định của thị trƣờng phái sinh TPCP khi chính thức đƣa vào hoạt động. Bên cạnh đó, UBCKNN đã nghiên cứu, hoàn thiện khung pháp lý cho các sản phẩm giao dịch mới, đặc biệt là Zero coupon và Bond Futures. Đồng thời, Bộ Tài chính, UBCKNN xem xét ban hành những cơ chế tài chính khuyển khích gắn với các chƣơng trình phát triển thị trƣờng, nhằm mở rộng số lƣợng nhà đầu tƣ. Đến hết tháng 12/2017, TTTP của Việt Nam chiếm 21,57% GDP với tổng giá trị là 47,54 tỷ USD. Khi so sánh với các quốc gia ASEAN thì quy mô của TTTP Việt Nam thấp nhất cả về giá trị tuyệt đối cũng nhƣ % GDP (bảng 4). Ngoài ra, có một điểm đáng lƣu ý đó là TTTP của Việt Nam chủ yếu là TPCP, giá trị niêm yết của TPDN là rất thấp. Bảng 4. Quy mô thị trƣờng trái phiếu Việt Nam cuối năm 2017 Giá trị TPCP (tỷ USD) Giá trị TPDN (tỷ USD) %GDP Indonesia 155,65 28,57 18,38 Malaysia 166,3 151,57 95,1 Philippines 89,38 20,46 34,66 Singapore 166,02 105,55 81,11 Thái Lan 251,61 94,65 73 Việt Nam 44,84 2,75 21,57 Nguồn: https://asianbondsonline.adb.org/. Truy cập ngày 03/4/2018 Ngoài quy mô còn nhỏ bé, so với các nƣớc trong khu vực thì TTTP Việt Nam còn tiềm ẩn những nguy cơ, điều này thể hiện ở hai yếu tố là độ mở của luật 199 và sự biến động của lạm phát. Nghiên cứu của Trần Hùng Sơn và ctg (2016) cho thấy độ mở của luật của Việt Nam khá tốt chỉ thua Singapore và ngang với Malaysia, tuy nhiên độ biến động của lạm phát Việt Nam là cao nhất trong 6 nƣớc. Vì vậy, cải thiện các quy định pháp lý và ổn định lạm phát là một trong những điều kiện quan trọng cho việc phát triển quy mô thị trƣờng trái phiếu Việt Nam. TTTP Việt Nam tuy tăng trƣởng nhanh nhƣng thiếu tính bền vững. Điều này, không chỉ thể hiện qua tỷ lệ phát hành phát hành áp đảo của TPCP, mà còn ở cơ cấu kỳ hạn bất hợp lý. Với biểu đồ 5, Việt Nam hầu nhƣ chỉ phát hành đƣợc trái phiếu dƣới 5 năm, mà cụ thể hơn là dƣới 3 năm, trong khi các nƣớc trong khu vực là hơn 7 năm. Trong khi đó, quốc gia nào có cơ cấu kỳ hạn trái phiếu càng dài thì tính triển vọng và đánh giá xếp hạng tín nhiệm luôn ở mức cao bởi các nhà đầu tƣ nhìn thấy tính ổn định và tiềm năng phát triển kinh tế trong tƣơng lai ở quốc gia đó. Biểu đồ 4: Kỳ hạn TPCP giữa các nƣớc trong khu vực (năm) Nguồn: https://asianbondsonline.adb.org/. 3. Nhận diện rủi ro đối với sự phát triển của thị trƣờng vốn Việt Nam Để nhận diện rủi ro và đánh giá mức độ ổn định tài chính của Việt Nam, chúng tôi sử dụng các chỉ tiêu đƣợc sử dụng phổ biến để đo lƣờng ổn định tài chính (Creel và cộng sự, 2014): Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản của ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng, chỉ số Zscore (đo lƣờng sự ổn định của hệ thống ngân hàng) và mức độ biến động giá chứng khoán. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản Vốn là một tiêu chí quan trọng để đánh giá khả năng chống đỡ rủi ro, cung 200 cấp năng lực tài chính, tạo niềm tin cho công chúng của các NHTM. Liên tục qua các năm, tỷ lệ vốn/tổng tài sản của hệ thống ngân hàng các nƣớc ASEAN gia tăng (Bảng 5). So với các nƣớc ASEAN, các ngân hàng Việt Nam có tỷ lệ vốn/tổng tài sản chỉ ở mức trung bình, còn xét theo giá trị tuyệt đối nhƣ đã phân tích ở trên thì các ngân hàng tại Việt Nam thuộc nhóm có quy mô thấp trong khu vực. Tuy nhiên, nếu so sánh tỷ lệ vốn/tài sản có điều chỉnh rủi ro thì các ngân hàng Việt Nam có tỷ lệ thấp nhất (Bảng 6), điều này cho thấy mức độ rủi ro của tài sản các ngân hàng Việt Nam cao hơn so với ngân hàng các nƣớc. Nhƣ vậy, so với các nƣớc AEC, ngân hàng Việt Nam không có lợi thế về quy mô so với các ngân hàng trong khu vực để có thể chống đỡ lại các rủi ro. Bảng 5. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản của hệ thống ngân hàng các nƣớc ASEAN (%) Quốc Gia 2005 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Indonesia 9,7 10,7 11,0 12,2 12,5 12,8 13,6 14,41 Malaysia 7,7 9,4 8,9 9,4 9,6 10 10,5 11,00 Philippines 11,8 10,2 11,1 11,7 9,7 9,9 10,0 9,74 Singapore 9,6 9,0 8,3 8,9 8,2 8,4 9,0 9,23 Thái Lan 9,0 11,3 10,3 11,2 10,9 9,54 10,0 10,46 Việt Nam N.A 8,9 9,3 9,9 9,5 8,8 8,7 7,77 Nguồn: Truy cập ngày 03/04/2018. Bảng 6. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro của hệ thống ngân hàng các nƣớc ASEAN (%) Quốc Gia 2005 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Indonesia 19,3 18,58 16,05 18,06 16,39 15,92 15,86 22,69 Malaysia 13,7 16,18 16,08 17,32 19,82 18,72 21,28 16,48 Philippines 17,7 17,45 17,70 17,64 14,58 15,36 16,28 14,46 Singapore 15,8 16,69 17,12 17,82 17,02 16,08 15,28 16,74 Thái Lan 13,2 16,08 14,82 16,17 15,46 16,52 17,11 17,76 Việt Nam N.A 11,33 12,90 11,85 13,38 11,83 12,77 12,64 Nguồn: Truy cập ngày 03/04/2018. 201 Tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu là một trong các chỉ tiêu đo lƣờng chất lƣợng tài sản của các NHTM. Một tỷ lệ nợ xấu cao cho thấy sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng thấp. Theo quy định tại Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM không đƣợc vƣợt quá 3%, tuy nhiên, trong 2 năm 2012-2013 thì tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đều lớn hơn mức này. Có một điểm đáng lƣu ý, con số nợ xấu công bố của các tổ chức tín dụng và của NHNN cũng nhƣ các tổ chức quốc tế có sự khác biệt rất lớn, báo cáo đánh giá khu vực tài chính Việt Nam của WB (2014) cho rằng tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam khoảng 12% trên tổng dƣ nợ. Điều này cho thấy sự không thống nhất về tiêu chí đánh giá nợ xấu giữa Việt Nam và thế giới, giữa các ngân hàng thƣơng mại, Ngân hàng Nhà nƣớc dẫn đến con số nợ xấu khác nhau. Xem xét tình hình nợ xấu tại các ngân hàng trong khu vực, Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu cao nhất và có xu hƣớng tăng lên (Bảng 7). So với các quốc gia khác nhƣ Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan, giai đoạn 2005-2007 thì Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu thấp hơn, nhƣng đến giai đoạn 2011-2015 thì đã tăng cao hơn so với các quốc gia này. Với một tỷ lệ nợ xấu cao sẽ là nguyên nhân khiến cho chất lƣợng tài sản các NHTM Việt Nam kém dẫn đến khả năng sinh lời thấp hơn. Bảng 7. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng các nƣớc ASEAN (%) Quốc Gia 2005 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Indonesia 7,6 2,5 2,1 1,8 1,7 2,1 2,43 2,90 Malaysia 9,4 3,4 2,7 2,0 1,8 1,7 1,60 1,61 Philippines 10,0 3,4 2,6 2,2 2,4 2,0 1,89 1,72 Singapore 3,8 1,4 1,1 1,0 0,9 0,8 0,92 1,22 Thái Lan 9,1 3,9 2,9 2,4 2,3 2,5 2,68 2,99 Việt Nam 3,2 2,5 3,6 4,08 3,61 3,25 3,
Tài liệu liên quan