Dạy học và kiểm tra, đánh giá các môn lí luận chính trị theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp ở trường Đại học

In universities, professional skill improvement is an important objective because there are many good graduates cannot meet the demand of the job and affirm their position in work and society. Therefore, it is not only the duty of professional subject but also political thesis to improve student’s professional skill. The article presents the teaching, testing and assessing political theory subjects according to professional skill in universities.

pdf4 trang | Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy học và kiểm tra, đánh giá các môn lí luận chính trị theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp ở trường Đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 54-57 54 Email: dm.kinhte@gmail.com DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CÁC MÔN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ THEO HƯỚNG TIẾP CẬN NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC Phạm Đức Minh - Trường Chính trị tỉnh Hải Dương Ngày nhận bài: 10/08/2018; ngày sửa chữa: 20/08/2018; ngày duyệt đăng: 26/08/2018. Absatrct: In universities, professional skill improvement is an important objective because there are many good graduates cannot meet the demand of the job and affirm their position in work and society. Therefore, it is not only the duty of professional subject but also political thesis to improve student’s professional skill. The article presents the teaching, testing and assessing political theory subjects according to professional skill in universities. Keywords: Testing, assessing, political thesis, approach capacity, occupation. 1. Mở đầu Trong bối cảnh đổi mới giáo dục toàn cầu, Việt Nam cũng đang thực hiện đổi mới GD-ĐT theo định hướng đánh giá năng lực. Vì vậy, dạy học theo hướng tiếp cận năng lực đã và đang trở thành một trong những vấn đề thời sự, một chủ trương lớn của ngành giáo dục và của xã hội. Bài viết tập trung nghiên cứu về vấn đề dạy học và kiểm tra, đánh giá các môn Lí luận chính trị (LLCT) theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp ở các trường đại học hiện nay. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Dạy học theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp Về cơ bản, các nhà nghiên cứu giáo dục phân chia chương trình dạy học thành 2 loại: dựa vào nội dung và năng lực. Chương trình dạy học dựa vào nội dung xuất phát từ quan niệm: dạy học là quá trình truyền thụ tri thức. Nhìn vào chương trình dạy học này, người dạy sẽ biết mình phải dạy những gì và học sinh sẽ biết mình phải học những gì. Chương trình dạy học dựa vào năng lực xuất phát từ quan niệm: dạy học là quá trình chuẩn bị cho người học những năng lực cần thiết bước vào cuộc sống. Do đó, chương trình môn học sẽ tập trung xác định đầu ra những năng lực (năng lực chung và năng lực chuyên biệt) cần đạt được ở người học. Qua đó, người dạy và người học sẽ xác định được những năng lực được hình thành ở người học. Như vậy, dạy học theo hướng tiếp cận năng lực là chương trình dạy học nhằm khắc phục những nhược điểm của dạy học định hướng nội dung “hàn lâm, kinh viện”. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “Năng lực là khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc” [1; tr 1087]. Các nhà nghiên cứu với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau nên chưa đưa ra định nghĩa thống nhất về năng lực. Tuy nhiên, các quan niệm đều đã chỉ ra những đặc trưng bản chất của năng lực, đó là: - Năng lực là sự tổng hợp các yếu tố kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, kinh nghiệm và nhiều nguồn lực tinh thần khác; - Nói đến năng lực là nói đến khả năng thực hiện, khả năng hành động có thể đo đếm, xác định được chứ không chỉ dừng lại ở biết và hiểu; - Nói đến năng lực là nói đến hiệu quả của việc vận dụng những kiến thức, kĩ năng để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực nghề nghiệp là tổng hợp những kiến thức, kĩ năng, thái độ của con người về nghề để đáp ứng những yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra. Ví dụ, năng lực nghề nghiệp của người giáo viên là sự tổng hợp của 3 yếu tố: kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và thái độ đối với nghề dạy học. Đào tạo giáo viên chính là quá trình làm thế nào để giúp người học đạt được 3 yếu tố này theo yêu cầu của nghề; từ đó, hình thành những năng lực đáp ứng yêu cầu của nghề, như: năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục, năng lực dạy học, năng lực giáo dục, năng lực phát triển nghề... Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với các trường đại học là thiết kế và tổ chức thực hiện chương trình đào tạo cần căn cứ vào hệ thống năng lực nghề nghiệp mà nghề đòi hỏi; hay nói cách khác, các trường cần dạy học theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp. Cơ sở để xác định mục tiêu đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực là những quy định cho một nghề. Ví dụ, đối với giáo viên trung học là Chuẩn nghề nghiệp của giáo viên trung học cơ sở và trung học phổ thông do Bộ GD- ĐT ban hành kèm theo Thông tư số 30/2009/TT- BGDĐT ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT; đối với giáo viên tiểu học là Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học do Bộ GD-ĐT ban hành kèm theo Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT ngày 04/5/2007 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT 2.2. Vận dụng dạy học theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp vào các môn Lí luận chính trị ở trường đại học 2.2.1. Xác định mục tiêu môn học theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 54-57 55 Trên cơ sở mục tiêu các môn LLCT được ban hành theo văn bản của Bộ GD-ĐT, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và chuẩn năng lực của nghề, giảng viên (GV) các môn LLCT xác định rõ môn học, tiết học sẽ góp phần hình thành những năng lực nghề gì cho sinh viên (SV). Đặc thù của các môn học là trang bị kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam...; từ đó, sẽ góp phần hình thành cho SV những năng lực nghề: - Hình thành thái độ đúng đắn với nghề (đây là một thành tố quan trọng cấu thành toàn bộ các tiêu chuẩn, tiêu chí của năng lực nghề); - Hình thành những năng lực nghề chung cho mọi nghề (năng lực phát hiện và giải quyết những vấn đề của nghề theo tư duy biện chứng); - Rèn luyện những năng lực nghề chuyên biệt (hát, đóng kịch, kể chuyện của giáo viên mầm non, thuyết trình của nghề hướng dẫn viên du lịch). 2.2.2. Tổ chức dạy học - Lựa chọn kiến thức giảng dạy: GV lựa chọn kiến thức theo hướng tích hợp kiến thức của môn học với khối kiến thức ngành, với thực tế ngành nghề đào tạo của SV, giúp SV vận dụng kiến thức của các môn LLCT vào nghề nghiệp của mình. Ví dụ, đối với ngành Sư phạm Mầm non, GV có thể gắn kiến thức các môn LLCT với những chủ đề ở trường mầm non (chủ đề gia đình, động vật, thực vật...); đối với ngành Quản trị kinh doanh có thể gắn với các quy luật xã hội, quy luật kinh tế, quy luật tâm lí trong tuyển dụng, quản trị nhân lực...; GV cũng có thể cho SV xem những hình ảnh, phim, video clip... về thực tế diễn ra trong ngành nghề đào tạo, từ đó hướng dẫn SV khái quát, rút ra kiến thức của các môn LLCT. - Lựa chọn phương pháp giảng dạy: khi bắt đầu vào học học phần các môn LLCT, GV giao cho SV nội dung tự học ở nhà của cả học phần. Nội dung này được thiết kế gắn chặt với việc hình thành năng lực nghề nghiệp của người học. Vì vậy, cùng một môn học nhưng GV sẽ phải xây dựng những nội dung tự học khác nhau cho những ngành đào tạo khác nhau. Ví dụ, yêu cầu SV ngành Sư phạm Mầm non xuống trường mầm non quan sát các hoạt động giáo dục để nhận xét về tính toàn diện trong giáo dục trẻ Mầm non; SV ngành Môi trường tìm hiểu, quan sát sự tác động của môi trường với con người để thuyết trình về mối liên hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng; SV ngành Kế toán thảo luận nhóm để nhận xét về tính khách quan trong các báo cáo kế toán, tài chính... Những công việc này SV phải chuẩn bị ở nhà trước khi lên lớp. Ở trên lớp, trên cơ sở kết quả chuẩn bị bài ở nhà của SV, GV tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học tích cực như thảo luận, đối thoại Chẳng hạn, khi dạy về Nguyên lí mối liên hệ phổ biến (môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chương II: Phép biện chứng duy vật) trên cơ sở nội dung tự học đã giao cho SV chuẩn bị ở nhà từ trước, GV cho SV ngành Sư phạm tiểu học kể chuyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi’’; cho SV ngành Môi trường thuyết trình về sự tác động qua lại giữa môi trường và con người để thấy được cần có quan điểm toàn diện trong nhận thức và hành động; đồng thời phê phán quan điểm phiến diện Bản chất và yêu cầu của tiếp cận năng lực là biết làm, biết vận dụng kiến thức và kĩ năng để giải quyết một vấn đề trong học tập, cuộc sống. Vì vậy, SV cần được luyện tập vận dụng kết hợp các thành phần kiến thức, kĩ năng, thái độ trong những tình huống ứng dụng nghề nghiệp. Để đáp ứng điều này, khi dạy học các môn LLCT, GV cần tăng cường nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng các tình huống, các trường hợp điển hình gắn với nghề nghiệp đang học. Những tình huống đó chứa đựng vấn đề cần giải quyết và để giải quyết được đòi hỏi phải có những quyết định dựa trên cơ sở lập luận. Kiến thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam lúc này là những định hướng, phương pháp luận chung nhất để giải quyết vấn đề. 2.2.3. Việc học của sinh viên Dạy và học là 2 hoạt động thống nhất biện chứng với nhau, sự thay đổi vế phương pháp giảng dạy của GV kéo theo sự thay đổi của phương pháp học. Trong các môn LLCT, việc giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp dẫn đến việc học cũng gắn theo định hướng này. SV luôn phải tìm hiểu, nắm bắt thực tế, kĩ năng nghề nghiệp của ngành đào tạo để tích hợp trong việc học các môn LLCT. SV không thể học thuộc “máy móc” mà phải tư duy sáng tạo trong học tập; cũng không thể chỉ học trong giáo trình mà phải tích cực đi thực tế, lên thư viện, lên mạng tra cứu, tìm kiếm, cập nhật thông tin phục vụ cho việc học tập. Tất cả những điều này làm cho quá trình truyền thụ tri thức “một chiều” của GV trở thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lí của GV; từ đó góp phần tiếp cận các năng lực nghề nghiệp chung của người học như năng lực sáng tạo, tự cập nhật, tự nghiên cứu 2.2.4. Tổ chức kiểm tra, đánh giá Cùng với việc dạy học, kiểm tra, đánh giá cũng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn LLCT. Theo định hướng tiếp cận năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá mà cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Vấn đề đặt ra trong đánh giá ở các môn LLCT là cần phải xây dựng được hệ thống câu hỏi vừa kiểm tra, đánh giá được việc nắm tri thức của SV, lại vừa kiểm tra, đánh giá được sự vận dụng những tri thức đó vào thực tế xã hội, ngành nghề đào tạo. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 54-57 56 Để việc kiểm tra, đánh giá các môn LLCT theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp, GV cần: dựa vào chuẩn năng lực nghề để ra đề, phải cung cấp phản hồi kịp thời để người học tự hoàn thiện năng lực. Sau đây, chúng tôi đưa ra một số ví dụ về đề kiểm tra theo hướng tiếp cận năng nghề nghiệp của môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi giảng về cùng 1 nội dung Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ vật chất và ý thức (Chương I: Chủ nghĩa duy vật biện chứng), với những ngành khác nhau, GV có thể đưa ra những đề kiểm tra khác nhau như sau: - Đề kiểm tra dành cho SV khối ngành Sư phạm (ngành Tiểu học): Anh (chị) hãy đọc bài viết sau: Thiên vị con giáo viên - phỏng vấn người trong cuộc Nhiều bạn bức xúc với hiện tượng cô giáo thiên vị con giáo viên. Bạn Phạm Đức Duy, phóng viên nhỏ (PVN) CLB Nhà Thiếu nhi tỉnh Hưng Yên đã có cuộc phỏng vấn mẹ bạn - một giáo viên trường tiểu học Quảng Châu - thành phố Hưng Yên về chủ đề này. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn: PVN Duy: - Thưa mẹ, có không ít bạn học sinh bức xúc về việc giáo viên thiên vị con thầy cô giáo. Mẹ nghĩ gì về việc này? Giáo viên (Mẹ Duy): - Hành động này là không tốt, vì muốn con giáo viên ngoan, học giỏi phải càng nghiêm khắc để không tạo nên thói ỷ lại cho con em, nhất là con giáo viên. PVN Duy: - Trong thời gian qua, mẹ có thiên vị con giáo viên không ạ? Giáo viên (Mẹ Duy): - Mẹ đã thực hiện nguyên tắc là không thiên vị bất cứ em học sinh nào, dù là con giáo viên hay không. PVN Duy: - Nếu thấy đồng nghiệp của mẹ làm như vậy, mẹ sẽ làm gì? Giáo viên (Mẹ Duy): - Mẹ sẽ gặp trực tiếp thầy giáo cô giáo ấy, giải thích cho đồng nghiệp hiểu cái sai và tác hại của hành vi này, khuyên họ phải công bằng trong đối xử với học sinh, tránh làm hại chính các em học sinh là con của giáo viên. PVN Duy: - Con cảm ơn mẹ ạ!. (Theo ngày 15/3/2011) Câu hỏi: 1. Anh (chị) có đồng tình với quan điểm của mẹ Duy không? Vì sao? 2. Việc thiên vị con giáo viên vi phạm nguyên tắc gì của chủ nghĩa duy vật biện chứng? Nguyên tắc này có yêu cầu gì? 3. Trong nhà trường Tiểu học, còn có những biểu hiện nào vi phạm nguyên tắc trên? Hãy phê phán và đề xuất biện pháp khắc phục. - Đề kiểm tra dành cho SV khối ngành Kinh tế (ngành Kế toán): Anh (chị) hãy đọc thông tin sau: Hiện nay, bằng nhiều cách lách luật khác nhau, các doanh nghiệp mỗi năm đang trốn thuế nhà nước hàng trăm tỉ đồng, có doanh nghiệp còn kê khai lỗ nhiều năm liền, trong khi đó lại đầu tư mở rộng kinh doanh. Thủ đoạn mà các doanh nghiệp thường làm để trốn thuế là kê giá nguyên liệu đầu vào rất cao, đồng thời tìm mọi cách khai tăng chi phí quảng cáo, khuyến mãi nhằm triệt tiêu lợi nhuận. Ở một trình độ cao hơn, doanh nghiệp còn thành lập một nhóm nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp đặt ở TP. Hồ Chí Minh, có doanh nghiệp đặt ở các tỉnh, thành khác được ưu đãi thuế. Những doanh nghiệp trong nhóm chuyển lãi qua doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế để doanh nghiệp này không phải đóng thuế hoặc đóng rất ít, những doanh nghiệp còn lại thì không phải đóng thuế do không có lãi. Điều này đồng nghĩa với việc nhà nước không chỉ thất thu một khoản thuế lớn mà còn tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp. (Theo VOV.VN ngày 13/8/2011) Câu hỏi: 1. Hãy dùng nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng để phân tích việc trốn thuế của các doanh nghiệp trong thông tin trên. 2. Sau này trở thành nhân viên kế toán, anh (chị) sẽ vận dụng yêu cầu của nguyên tắc khách quan vào nghề nghiệp của mình như thế nào? - Đề kiểm tra dành cho SV khối ngành Khoa học xã hội và nhân văn (ngành Quản lí văn hoá): Anh (chị) hãy đọc bài viết sau: Hơn chục năm qua, TS. Bùi Quang Thắng được VICAS giao cho tổ chức, phục dựng nhiều lễ hội truyền thống. Trong quá trình tổ chức lễ hội, ông luôn tuân thủ nguyên tắc: không áp đặt ý chí chủ quan của mình vào cộng đồng. Từ việc xây dựng kịch bản tổng thể đến kịch bản chi tiết ở từng nghi thức của lễ hội, từ phân công thực hiện đến việc luyện tập, ông cùng êkíp của mình luôn thảo luận cùng với địa phương và những người đại diện cho các cộng đồng. Điều đó đã tạo được lòng tự hào của người dân về lễ hội mà họ đã góp công, góp sức xây dựng nên. Đó cũng chính là sức mạnh tinh thần để lễ hội sống trong lòng cộng đồng. (Theo ngày 18/2/2011) Câu hỏi: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 54-57 57 1. Dựa vào ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, anh (chị) hãy phân tích ưu điểm của kinh nghiệm trên. 2. Từ vấn đề trên, anh (chị) rút ra bài học gì để vận dụng vào công tác quản lí văn hóa của anh (chị) sau này? - Đề kiểm tra dành cho SV khối ngành Khoa học kĩ thuật - Công nghệ (ngành Môi trường): Anh (chị) hãy đọc những thông tin sau: Môi trường là vấn đề thách thức lớn nhất đối với toàn cầu, mỗi quốc gia và khu vực trong thế kỉ XXI, đặc biệt ở những thành phố đông dân cư như Hà Nội. Chính vì vậy, công tác bảo vệ môi trường đã được Đảng, Nhà nước và Chính phủ cũng như Đảng và chính quyền Thủ đô đặc biệt quan tâm. Ngày 15/11/2004 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về Bảo vệ môi trường trong thời kì CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết đề ra nhiệm vụ: Đối với đô thị và ven đô thị cần chấm dứt nạn đổ rác và xả nước thải chưa qua xử lí, khắc phục tình trạng mất vệ sinh nơi công cộng; trong quy hoạch bố trí diện tích đất hợp lí cho các nhu cầu về cảnh quan môi trường; tăng lượng cây xanh dọc các tuyến phố Đối với vùng nông thôn: Hạn chế sử dụng hoá chất trong canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản; thu gom và xử lí hợp vệ sinh đối với các loại bao bì chứa đựng hoá chất sau khi sử dụng; bảo vệ chất lượng các nguồn nước, đặc biệt chú ý khắc phục tình trạng khai thác, sử dụng bừa bãi, gây cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước ngầm; Hình thành nếp sống hợp vệ sinh gắn với việc khôi phục phong trào xây dựng “ba công trình vệ sinh” của từng hộ gia đình phù hợp với tình hình thực tế (Theo Câu hỏi: 1. Bằng nguyên tắc khách quan trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, anh (chị) hãy lí giải việc Nghị quyết số 41-NQ/TW đưa ra các giải pháp khác nhau trong bảo vệ môi trường của vùng đô thị, ven đô thị và vùng nông thôn. 2. Rút ra ý nghĩa đối với người cán bộ môi trường. Với cách đánh giá như trên, đề kiểm tra, thi được ra rất đa dạng, phong phú, nội dung đề có tính hấp dẫn đối với cả GV và SV; vừa đánh giá được mức độ nắm kiến thức, vừa đánh giá được khả năng vận dụng kiến thức của các môn LLCT vào thực tế nghề nghiệp của người học. Về phía SV, thay vì đơn thuần là tái hiện kiến thức đã được học thì phải tổng hợp những kiến thức này để phân tích những vấn đề thực tiễn trong ngành mình, dùng kiến thức của các môn LLCT là những định hướng chung để tiếp cận ngành nghề đào tạo, góp phần hình thành năng lực nghề cho SV. Tuy nhiên, với cách ra đề kiểm tra, thi như trên, GV phải mất nhiều thời gian, phải đào sâu suy nghĩ, phải có kiến thức hiểu biết liên ngành. Mặt khác, với những SV học khá, ham học hỏi thì rất hứng thú với kiểu ra đề kiểm tra, thi này, nhưng với SV học trung bình, kém, quen thụ động thì cho rằng những đề kiểm tra, thi như vậy là khó, không biết cách làm, thậm chí chán nản trong học tập, vì vậy nhà trường, GV cần có những biện pháp hỗ trợ những các em. 3. Kết luận Dạy học theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp trong dạy học các môn LLCT ở các trường đại học không chỉ trang bị những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng, góp phần hình thành, bồi dưỡng cho SV thế giới quan và phương pháp luận khoa học, định hướng suy nghĩ, hành động cho thế hệ trẻ mà còn giúp SV đạt được năng lực nghề nghiệp; trên cơ sở đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học các môn LLCT hiện nay. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Như Ý (chủ biên, 2011). Đại Từ điển Tiếng Việt. NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. [2] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [3] Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier (2012). Lí luận dạy học hiện đại. NXB Đại học Sư phạm. [4] Tạ Thị Thúy Ngân (2013). Đào tạo sinh viên ngành Giáo dục công dân theo hướng tăng cường kĩ năng nghề nghiệp ở Trường Cao đẳng Hải Dương. Kỉ yếu Hội thảo quốc gia về giáo dục đạo đức - công dân trong giáo dục phổ thông Việt Nam, Trường Cao đẳng Hải Dương, tr 79-85. [5] Đỗ Ngọc Thống (2013). Xây dựng chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tiếp cận năng lực. Tạp chí Khoa học giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số tháng 5/2013; tr 25-28. [6] Nguyễn Duy Bắc (2004). Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về dạy và học môn học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [7] Trần Văn Phòng (2016). Phương pháp giảng dạy tích cực với việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn Lí luận chính trị ở các trường đại học sư phạm hiện nay. Kỉ yếu Hội thảo quốc gia “Nghiên cứu và giảng dạy Lí lận chính trị trong xu thế toàn cầu hóa”. NXB Lí luận chính trị, tr 183-189. [8] Phạm Huy Kỳ (2010). Lí luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lí luận chính trị. NXB Chính trị - Hành chính.
Tài liệu liên quan