Đề tài Ảnh hưởng các nhân tố vĩ mô lên thị trường chứng khoán Việt Nam

Thị trường chứng khoán (TTCK) của Việt Nam nhìn chung vẫn còn non trẻ với 10 năm hoạt động. Tuy vậy, nó đã có những bước phát triển nhanh chóng, góp phần vào sự phát triển nền kinh tế của đất nước, là kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp giúp đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình kinh tế, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà đầu tư. Tuy nhiên, trong những năm gần đây những biến động của các nhân tố của môi trường kinh tế vĩ mô đã tác động rất lớn đến TTCK làm cho TTCK trải qua nhiều cơn biến động mạnh và điều này ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế, để nhận thấy rõ những ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô, nhóm đã chọn nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng các nhân tố vĩ mô lên TTCK Việt Nam”.

pdf50 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2058 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng các nhân tố vĩ mô lên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Giới thiệu đề tài Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán (TTCK) 1. Các khái niệm . ........................................................................................ 4 1.1 Chứng khoán ................................................................................. 4 1.2 Thị trường chứng khoán .... ........................................................... 4 2. Chức năng và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. 2.1 Chức năng của TTCK .................................................................. 4 2.2 Nguyên tắc hoạt động .... ............................................................... 6 2.3 Các thành phần tham gia TTCK ..................................................... 7 Chương 2: Các nhân tố vĩ mô và thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Hệ thống chính sách ................................................................................ 9 2. Pháp luật .................................................................................................. 12 3. Lạm phát .................................................................................................. 14 4. Lãi suất .................................................................................................... 21 5. Tỷ giá hối đoái ........................................................................................ 29 Chương 3: Nhìn lại thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 dưới tác động của các nhân tố vĩ mô............................................................................................ 36 Chương 4: Kiểm định sự phù hợp của mô hình tuyến tính giữa Vnindex và các nhân tố vĩ mô......................................................................................................... 38 Kết luận Tài liệu tham khảo 2GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI Lý do chọn đề tài: Thị trường chứng khoán (TTCK) của Việt Nam nhìn chung vẫn còn non trẻ với 10 năm hoạt động. Tuy vậy, nó đã có những bước phát triển nhanh chóng, góp phần vào sự phát triển nền kinh tế của đất nước, là kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp giúp đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình kinh tế, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà đầu tư. Tuy nhiên, trong những năm gần đây những biến động của các nhân tố của môi trường kinh tế vĩ mô đã tác động rất lớn đến TTCK làm cho TTCK trải qua nhiều cơn biến động mạnh và điều này ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế, để nhận thấy rõ những ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô, nhóm đã chọn nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng các nhân tố vĩ mô lên TTCK Việt Nam”. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ về những ảnh hưởng của các nhân tố của môi trường kinh tế vĩ mô tới TTCK Việt Nam trong thời gian qua đặc biệt là những năm khủng hoảng kinh tế gần đây. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu đề tài là phương pháp thu nhập thông tin từ sự quan sát, sách báo, giáo trình, thu nhập số liệu thực tế và dựa trên số liệu để rút ra kết luận. Đồng thời sử dụng mô hình hồi quy OLS để kiểm định sự phụ thuộc tuyến tính của chỉ số Vnindex đối với các nhân tố vĩ mô. 3Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của các yếu tố của môi trường vĩ mô đến TTCK nói chung và TTCK năm khủng hoảng kinh tế 2008 nói riêng. Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu những tác động của các yếu tố trong môi trường kinh tế vĩ mô gồm yếu tố lạm phát, lãi suất, tỉ giá hối đoái, chính sách, lạm phát, lên thị trường chứng khoán. Chạy mô hình OLS với các số liệu của chỉ số Vn- Index, lãi suất chiết khấu, tỉ giá hối đoái, CPI từ 2006-2008 để ước lượng mối quan hệ tuyến tính giữa các biến vĩ mô (biến phụ thuộc) với biến chỉ số VN-Index. Đóng góp của đề tài: Đề tài nghiên cứu làm rõ những ảnh hưởng của nhân tố vĩ mô lên thị trường chứng khoán. Thông qua đó, giải thích được tốt hơn những biến động của thị trường chứng khoán trong khoảng thời gian gần đây. Hướng phát triển của đề tài: Tuy nhóm có chạy mô hình các nhân tố tác động lên thì trường chứng khoán nhưng mô hình này còn tồn tại nhiều thiếu sót. Những thiếu sót này cũng được làm rõ trong bài nghiên cứu và nếu được khắc phục trong những bài nghiên cứu sau thì việc dự đoán sự thay đổi của thị trường chứng khoán sẽ trở nên chính xác hơn. 4Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán 1. Các khái niệm 1.1 Chứng khoán: Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. 1.2. Thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. 2. Chức năng và nguyên tắc hoạt động của TTCK 2.1. Chức năng của TTCK 2.1.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. 52.1.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. 2.1.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. 2.1.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. 2.1.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô: Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và 6bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 2.2. Các nguyên tắc hoạt động của TTCK: 2.2.1. Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. 2.2.2. Nguyên tắc công bằng: Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó. 2.2.3. Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan. 2.2.4. Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, 7các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. 2.2.5. Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản. 2.3 Các thành phần tham gia TTCK: 2.3.1. Nhà phát hành: Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK dưới hình thức phát hành các chứng khoán. 2.3.2. Nhà đầu tư: Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Gồm có: Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích kiếm lời. Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, Quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán. 82.3.3. Các công ty chứng khoán: Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh. 2.4.4. Các tổ chức có liên quan đến TTCK: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK ở Việt nam. Sở giao dịch chứng khoán là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy định của luật pháp và UBCK .Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. 9Chương 2: Sự ảnh hưởng của một vài nhân tố vĩ mô lên thị trường chứng khoán Việt Nam Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều các nhân tố có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán. Chúng có thể tác động riêng rẽ, có thể kết hợp với nhau làm cho thị trường chúng khoán có những biến động hết sức phức tạp. Tuy nhiên trong phạm vi bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ chọn ra một số những nhân tố chính tác động mạnh mẽ nhất lên thị trường chứng khoán để phân tích. 1. Hệ thống chính sách: Đối với một quốc gia, trong nền kinh tế thị trường thì vai trò điều tiết của Chính Phủ là rất to lớn. Với vai trò hành pháp, Chính Phủ ban hành các chính sách để đảm bảo sự quản lý của mình sao cho phù hợp và góp phần phát triển kinh tế theo các mục tiêu. Để thực hiện việc này, Chính phủ có các công cụ quản lý vĩ mô của mình, đó là Chính sách tiền tệ, Chính sách tài khóa, Chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thu nhập mà trong đó Chính sách tiền tệ và tài khóa giữ vai trò quyết định. Thị trường chứng khoán, kênh huy động vốn quan trọng của Chính phủ, chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ của hệ thống chính sách, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các Doanh nghiệp cũng như các các tổ chức tín dụng. Mỗi sự thay đổi của chính sách kéo theo đó là sự mất cân bằng trong nguồn vốn hay nói cách khác, nó tác động lên nguồn vốn, ảnh hưởng sự hoạt động của thị trường chứng khoán. Ở nước ta, mặc dù là nền kinh tế thị trường nhưng chịu sự giám sát và quản lý rất chặt chẻ của Chính phủ mà TTCK cũng không ngoại lệ, chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của hệ thống chính sách từ Chính Phủ. Một chính sách tác động trên nhiều khía cạnh nền kinh tế không chỉ riêng đối với TTCK, tuy nhiên điều mà nó mang lại cho TTCK là không nhỏ chút nào. 10 Chúng ta biết rằng vai trò của TTCK đó là huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Một chính sách phù hợp với tình hình cũng như đều kiện kinh tế hiện thời sẽ tạo đà tâm lý vững vàng cho các nhà đầu tư cũng như giúp thị trường có mức tăng trưởng tốt. Ngược lại, một chính sách sai lầm, không phù hợp sẽ gây ra những phản ứng không tốt cho thị trường. Thêm vào đó sự không phù hợp của chính sách sẽ kéo theo đó hệ quả to lường đối với nền kinh tế. Chẳng hạn Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ trong bối cảnh thị trường đang giảm điểm, nguồn tiền vào thị trường đang khan hiếm thì với chinh sách như thế sẽ càng làm TTCK đi xuống mà thôi. Tuy nhiên đó chỉ là giả dụ, trong thực tế thì không Chính phủ nào lại làm thế. Một chính sách đôi khi được các nhà đầu tư xem như là vấn đề “hot” mà họ quan tâm hơn hết so với các vấn đề khác. Lấy trường hợp vào những tháng đầu năm 2008, sau khi ăn Tết Nguyên Đán xong, với sự mong đợi cũng như dự đoán về một năm tốt lành cho chứng khoán Việt Nam, TTCK VN đã quay đầu giảm điểm trái với những dự đoán trước đó. Lạm phát kỷ lục, thâm hụt thương mại lớn dẫn đến sự mất cân đối trong tài chính vĩ mô khiến Chính phủ phải thắt chặt tiền tệ, cùng với đó là quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng Trái phiếu bắt buộc đối với các Ngân hàng nhưng không được sử dụng vay tái cấp vốn, đồng thời tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 11%, qua đó số tiền các Ngân hàng cần phải có ít nhất là 23.000 tỷ đồng và thời điểm phát hành đợt trái phiếu này là 17/3/2008. Với thời gian ngắn cùng với việc phải huy động một số tiền lớn, các Ngân hàng đã đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường, áp dụng các biện pháp như hạn chế cho vay (bao gồm vay đầu tư chứng khoán), tập trung thu nợ. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến TTCK Việt Nam, một số tiền lớn bị rút khỏi thị trường tạo sự khan hiếm vốn trong TTCK, các doanh nghiệp cũng trong tình trạng thiếu hụt vốn để thực hiện các dự án đầu tư của mình, tính thanh khoản của thị trường đã giảm đáng kể. 11 Qua ví dụ trên, thoạt nhìn ta tưởng như rằng chính sách đưa ra là để làm giảm điểm thị trường nhưng mục đích sâu xa vẫn là hướng đến nền kinh tế. Chính sách được Chính phủ đưa ra là để điều chỉnh, ổn định vĩ mô nền kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lí, tuy nhiên thì dù trong trường hợp nào đi chăng nữa thì chinh sách vẫn ảnh hưởng lên thị trường chứng khoán. Có thể Chính sách mục đích là ngăn chặn sự suy giảm trì trệ của nền kinh tế, là để kìm hãm lạm phát, nguy chặn khủng hoảng nhưng lại không mang những dấu hiệu tích cực cho thị trường chứng khoán (như ví dụ trên). Để giải thích cho điều trên, chúng ta có thể quay về khoảng đầu năm 2007, sau khi kết thúc năm 2006, một năm được các nhà phân tích xem là năm thăng hoa của TTCK nước ta. Chúng ta hãy xem xét chỉ thị số 03, được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành ngày 28/5/2007 và có hiệu lực thi hành từ đầu tháng 7/2007, Chỉ thị 03 với nội dung chính là quy định giới hạn các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn cầm cố bằng cổ phiếu để đầu tư CK dưới 3%. Đặc biệt, khi NNHN có văn bản hướng dẫn và nói rõ tỷ lệ đó phải được giảm xuống với thời hạn cuối cùng là 31/12/2007. Điều này cũng đã có những tác động đáng kể đến TTCK. Với TTCK Việt Nam mới ở giai đoạn đầu phát triển, các nhà đầu tư cá nhân chiếm tỷ trọng lớn. Vốn đầu tư trên TTCK có sự lưu thông chặt chẽ với hệ thống ngân hàng. Đó là vốn vay từ cầm cố cổ phiếu, từ các tài sản đảm bảo khác: nhà đất, sổ tiết kiệm, xe ôtô, tín chấp bằng lương, tín chấp khác... Đó là nguồn tiền gửi tiết kiệm tại NHTM rút ra để đầu tư Chứng khoán... nên quyết định hành chính của Chỉ thị 03 đột ngột và mang nặng tính hành chính đã tác động không nhỏ đến diễn biến TTCK. (theo báo Vietnamnet) và sau đó, chỉ thị này đã được sửa đổi sao cho phù hợp với điều kiện cũng như tình hình thực tế của TTCK (quyết định 03/2008 QĐ-NHNN) vào đầu tháng 2/2008. 12 TTCK có những đợt giảm điểm mạnh từ tháng 5 cho đến tháng 9/07, tức là thời điểm chỉ thị 03/2007 được công bố (chưa có hiệu lực) cho thấy ảnh hưởng của Chính sách mạnh mẽ như thế nào. Nhưng tại sao TTCK lại tăng mạnh và đạt đến đỉnh vào tháng 10/2007 và sau khi chính sách được sửa đổi, Vn-Index lại diễn biến là một chuỗi giảm giá liên tục. Vậy có liệu chăng ảnh hưởng của chính sách lúc này là không đáng kể? Vậy có thể nói rằng Chính sách có tác động rất mạnh mẽ nhưng nguyên nhân chính khiến thị trường giảm điểm mạnh chưa chắc phải là do tác động của chính sách. 2. Hệ thống pháp luật Pháp luật thể hiện bản chất của Nhà nước đặt ra nó, là công cụ quản lý xã hội của Nhà nước. Mang tính chất bắt buộc, đã là công dân của một nước thì phải sống và tuân theo Pháp luật của nước đó. Trong nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau và để quản lý hết một tổng thể to lớn, Nhà nước có mỗi sắc lệnh riêng cho từng lĩnh vực (hệ thống hành lang Pháp lý) tuy nhiên cho dù có nhiều sắc lệnh, nhiều hình thức thì chúng đều có mối liên hệ nhất thiết với nhau, tác động qua lại với nhau, không độc lập, tức là ngành này đôi khi hoạt động dựa trên và chịu ảnh hưởng của Luật ngành khác. Như đã trình bày ở trên, TTCK là kênh huy động vốn trong nền kinh tế, không chỉ huy động nguồn vốn trong nước mà còn ở ngoài nước cho nên liên quan đến rất nhiều các ngành nghề và lĩnh vực khác trong xã hội, do đó một hệ thống pháp luật được xây dựng hợp lý và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư là điều kiện tốt cho TTCK phát triển bền vững 13 Ở nước ta, hệ thống Pháp Luật vốn không ổn định, được thay đổi và bổ sung, sửa đổi thường xuyên. Điều nay ảnh hưởng tới TTCK. Khi một bộ Luật bị thay đổi và sửa chửa, các tổ chức nước ngoài cũng như nhà đầu tư ngoài nước sẽ cho rằng môi trường đầu tư tại nước ta là thiếu ổn định, liệu họ có muốn đầu tư vào thị trường mà rủi ro từ thay đổi trong pháp luật là điều không thể đoán trước được. Một hệ thống pháp lý ổn định sẽ giúp thị trường thu hút đầu tư nước ngoài bởi “sợi dây” ngăn cách các nhà đầu tư nước ngoài đó chính là hành lang pháp lý. Còn đối với các chủ thể trong nước, những người trực tiếp chịu sự ảnh hưởng này thì ảnh hưởng từ điều này là không biết như thế nào được. Tuy nhiên đây chỉ là xét trên mặt tiêu cực, sự thay đổi trong hệ thống Pháp Luật ở mặt tích cực thì điều mang nó mang lại là dấu hiệu khả quan cho TTCK. Có thể thấy rằng, TTCK nước ta chịu ảnh hưởng của khá nhiều Luật, từ Luật Thương mại cho đến Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp.... mỗi bộ Luật đều ảnh hưởng theo cách riêng của nó và chung quy lại đều tác động đến giao dịch của các nhà đầu tư. Là một lĩnh vực còn khá mới mẻ ở nước ta so với thế giới cũng như con yếu kém trong khâu quản lý và điều hành hoạt động, tính ổn định của hệ thống pháp luật là điều rất quan trọng trong quá trình phát triển của TTCK Với sự xuất hiện của Luật chứng khoán, khung pháp lý cho hoạt động đầu tư trên thị trường tài chính nước ta đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều điều bất cập đó là sự điều hành theo cơ chế mệnh lệnh hành chính, điều này không đúng với tiêu chuẩn cũng như yêu cầu khi tham gia nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên điều này đã chứng tỏ cam kết mạnh mẽ của chính phủ trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài 14 Năm 200
Tài liệu liên quan