Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có thực mới vực được đạo”. Như vậy ăn uống là nhu cầu không thể thiếu của mỗi con người, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những để duy trì sự sống, tái sản xuất sức lao động mà còn phát triển kinh tế. Ăn uống đã nâng lên thành nghệ thuật và là nghệ thuật ẩm thực từ quy trình sao cho đẹp mắt, hấp dẫn và ngon miệng. Và nghệ thuật ẩm thực được nâng lên thành văn hóa ẩm thực.
32 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2289 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có thực mới vực được đạo”. Như vậy ăn uống là nhu cầu không thể thiếu của mỗi con người, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những để duy trì sự sống, tái sản xuất sức lao động mà còn phát triển kinh tế. Ăn uống đã nâng lên thành nghệ thuật và là nghệ thuật ẩm thực từ quy trình sao cho đẹp mắt, hấp dẫn và ngon miệng. Và nghệ thuật ẩm thực được nâng lên thành văn hóa ẩm thực.
Ăn uống là cách thể hiện nét đẹp trong văn hóa ứng xử, thể hiện lối sống của con người. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền, mỗi địa phương đều có một tập quán ăn uống riêng: từ cách ăn, kiểu ăn, món ăn đặc trưng… không nơi nào giống nơi nào. Đặc điểm ăn uống đó xuất phát từ quá trình sống, điều kiện tự nhiên, tập quán lao động sản xuất, khí hậu, điều kiện xã hội và các tác động bên ngoài.
Ẩm thực của mỗi vùng miền trên đất nước Việt Nam là khác nhau. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: địa hình, con người, phong tục, tập quán… và cũng như vậy ta thấy, phong cách ẩm thực của miền Trung thể hiện cách sống, lối sống độc đáo của con người xứ này. Thanh Hóa cũng đã góp một phần vào nét độc đáo của người miền Trung, góp phần làm nên hương vị riêng của món ăn Việt.
Những món quà nhỏ bé ở Thanh Hóa đã thể hiện lối ứng xử tự nhiên, thổi cả tâm tư tình cảm của con người vào trong đó. Qua đó thấy được nét văn hóa của người xứ Thanh trong giá trị ẩm thực như: chân – thiện – mỹ.
Là một người con sinh ra trên mảnh đất Thanh Hóa giàu truyền thống văn hóa, nơi con sông Mã vẫn âm thầm chảy qua những nương dâu xanh ngát, những đồng ruộng tươi tốt, bản thân tôi luôn muốn góp một chút gì đó cho quê hương đang trên đà phát triển. Tìm hiểu đề tài: “Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua”, tôi hy vọng sẽ được hiểu biết thêm về những giá trị văn hóa tiềm ẩn bên trong đời sống vật chất và tinh thần của con người xứ Thanh. Góp phần giữ gìn và tôn vinh một trong những giá trị văn hóa đặc sắc của vùng đất này.
Lịch sử vấn đề
Văn hóa ẩm thực không phải là một vấn đề mới, mà đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đền này. Nhưng nghiên cứu ở một địa phương thì chỉ có những bài báo nhỏ lẻ, chưa có một công trình chuyên sâu, chuyên khảo nên chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua”.
Ngay từ buổi xa xưa, văn hóa ẩm thực Việt Nam đã đi vào khuôn phép, đã trở thành di sản lưu truyền, mang rõ dấu ấn thời đại và được người xưa lưu giữ mãi cho đến đời sau, xứng đáng là một kho báu của người Việt để lại. Ông cha ta đã từng trân trọng nền văn hóa ẩm thực từ thời xa xưa bằng các câu chuyện cổ tích về Bánh chưng bánh dày, về dưa hấu, về trầu cau... mỗi câu chuyện đều có sự tích, đều gắn với tên người được ghi lại sớm từ thời Trần – Lê trong cuốn Lĩnh Nam trích quái, các bài viết về ăn và uống của nhà bác học Lê Quý Đôn trong Vân đài loại ngữ, của Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút, Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục, Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương…
Theo dòng thời gian, việc nghiên cứu về văn hóa ẩm thực Việt Nam đã trở thành một đề tài khoa học nghiêm túc. Bằng chứng là thế hệ trẻ ngày nay đã quan tâm đến bản sắc dân tộc trong ăn uống, trong các bài nghiên cứu, qua các luận văn tốt nghiệp về văn hóa ẩm thực. Đến nay có nhiều nhà xuất bản, các tạp chí, vô tuyến truyền hình đã cho ra nhiều sách báo và hình ảnh chứa đựng nội dung sâu sắc về văn hóa ẩm thực có giá trị. Đáng chú ý phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả sau.
Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm viết về văn hoá ứng xử môi trường tự nhiên và việc tận dụng môi trường tự nhiên trong ăn uống của người Việt. Nhưng trong cả hai cuốn sách này tác giả chỉ khái lược những nét chung nhất về ăn uống của người Việt, chưa đi sâu vào văn hóa ẩm thực của từng địa phương.
Trong cuốn Văn hóa ẩm thực Việt Nam các món ăn miền Bắc do Băng Sơn – Mai Khôi giới thiệu, Văn hóa ẩm thực Việt Nam các món ăn miền Trung do Mai Khôi sưu tầm và sáng tác, Văn hóa ẩm thực Việt Nam các món ăn miền Nam do Băng Sơn – Vũ Bằng – Thượng Hồng giới thiệu. Trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đi vào giới thiệu nhiều món ăn đặc trưng của từng vùng miền, từng địa phương cụ thể nhưng chưa đầy đủ, cung cấp cho chúng ta thấy được sự khác nhau giữa văn hóa ẩm thực ba miền.
Trong cuốn Văn hóa ẩm thực những điều học hỏi của tác giả Vũ Ngọc Khánh, có nhiều nghiên cứu tương đối chi tiết về văn hóa ẩm thực Việt Nam. Tác giả đề cập đến tập quán ăn uống chung của người Việt và những sắc thái địa phương riêng như: Hà Nội, Huế, Sài Gòn, xứ Nghệ… chính là những sắc thái này tạo nên sự đa dạng và làm cho bức tranh ẩm thực Việt Nam thêm phần sinh động. Màu sắc địa phương tô thêm cho bản sắc dân tộc những nét đậm đà và do đó ta có thể hiểu được người Việt hơn.
Trong cuốn Giáo trình văn hóa ẩm thực Việt Nam của Nguyễn Thị Diệu Thảo, nghiên cứu một cách công phu có sự hiểu biết rộng và sâu sắc về văn hóa ẩm thực Việt Nam. Hầu như tất cả các vấn đề văn hóa ẩm thực của nước ta, từ những vấn đề về nguyên liệu, chế biến, đồ gia vị, cách thức thưởng thức đến những đặc trưng trong phong tục ăn uống ở các vùng miền, từ ẩm thực bình dân đến ẩm thực cung đình… Ngoài ra, tác giả còn đưa ra những nét về văn hóa ẩm thực Trung Hoa, các nước Đông Nam Á, các nước phương Tây nhờ vậy mà đặc trưng văn hóa ẩm thực Việt Nam càng nổi bật.
Trên đây là những công trình nghiên cứu tiêu biểu về văn hóa ẩm thực Việt Nam. Kế thừa và tiếp thu ý kiến của người đi trước và qua sự khảo sát thực tế, trong đề tài này chúng tôi bước đầu khảo sát văn hóa ẩm thực ở Thanh Hóa để cố gắng đưa ra những vấn đề cụ thể và toàn diện hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua.
- Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi đi vào tìm hiểu mảnh đất, con người Thanh hóa và đặc sản ẩm thực qua món nem chua.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp điền dã, thâm nhập
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp khảo sát.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, đề tài còn có phần mục lục và thư mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung gồm hai chương chính:
Chương 1: Tổng quan về Thanh Hóa và ẩm thực Thanh Hóa
Chương 2: Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua.
NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về Thanh Hóa và ẩm thực Thanh Hoá
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Thanh Hóa nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến 106°05' Đông. Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào) với đường biên giới 192 km, phía Đông là Vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102 km. Diện tích tự nhiên của Thanh Hóa là 11.106 km², chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km².
Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, có hệ thống giao thông thuận lợi như: đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217, cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc tế. Hiện tại, Thanh Hóa có sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay quốc tế sát biển phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch.
Điều kiện tự nhiên
1.1.2.1. Địa hình
Thanh Hoá có địa hình đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3 vùng rõ rệt:
- Vùng núi và Trung du có diện tích đất tự nhiên 839.037 ha, chiếm 75,44% diện tích toàn tỉnh, độ cao trung bình vùng núi từ 600 -700m, độ dốc trên 25o, vùng trung du có độ cao trung bình 150 - 200m, độ dốc từ 15 -20o.
- Vùng đồng bằng có diện tích đất tự nhiên là 162.341 ha, chiếm 14,61% diện tích toàn tỉnh, được bồi tụ bởi các hệ thống Sông Mã, Sông Bạng, Sông Yên và Sông Hoạt. Độ cao trung bình từ 5 - 15m, xen kẽ có các đồi thấp và núi đá vôi độc lập. Đồng bằng Sông Mã có diện tích lớn thứ ba sau đồng bằng Sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng.
- Vùng ven biển có diện tích 110.655 ha, chiếm 9,95% diện tích toàn tỉnh, với bờ biển dài 102 km, địa hình tương đối bằng phẳng. Chạy dọc theo bờ biển là các cửa sông. Vùng đất cát ven biển có độ cao trung bình 3 - 6 m, có bãi tắm Sầm Sơn nổi tiếng và các khu nghỉ mát khác như Hải Tiến (Hoằng Hoá) và Hải Hoà (Tĩnh Gia)... có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản và phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ kinh tế biển.
1.1.2.2. Khí hậu
Thanh Hoá nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 4 mùa rõ rệt. Gió Bắc do không khí lạnh từ vùng áp cao Siberi qua Trung Quốc thổi xuống. Gió Tây Nam từ vịnh Bengal qua Thái Lan, Lào thổi vào, rất nóng, gọi là gió Lào hay gió phơn Tây Nam. Gió Đông Nam thổi từ biển vào đem theo không khí mát mẻ.
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1600-2300mm, mỗi năm có khoảng 90 - 130 ngày mưa. Độ ẩm tương đối từ 85% đến 87%, số giờ nắng bình quân khoảng 1600-1800 giờ. Nhiệt độ trung bình 230C - 240C, nhiệt độ giảm dần khi lên vùng núi cao. Hướng gió phổ biến mùa Đông là Tây bắc và Đông bắc, mùa hè là Đông và Đông nam.
1.1.2.3. Tài nguyên đất
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 245.367 ha; đất sản xuất lâm nghiệp 553.999 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản 10.157 ha; đất chưa sử dụng 153.520 ha với các nhóm đất thích hợp cho phát triển cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả.
1.1.2.4. Tài nguyên rừng
Thanh Hoá là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng là 484.246 ha, trữ lượng khoảng 16,64 triệu m3 gỗ, hàng năm có thể khai thác 50.000 - 60.000 m3. Rừng Thanh Hoá chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú đa dạng về họ, loài, có các loại gỗ quý hiếm như: lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, dổi, de, chò chỉ. Các loại thuộc họ tre nứa gồm có: luồng, nứa, vầu, giang, tre. Ngoài ra còn có: mây, song, dược liệu, quế, cánh kiến đỏ… Các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ, bạch đàn, phi lao, quế, cao su. Thanh Hoá là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000 ha. Rừng Thanh Hoá cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim… Đặc biệt ở vùng Tây nam của tỉnh có rừng quốc gia Bến En, vùng Tây Bắc có các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Pù Luông, Xuân Liên, là những khu rừng đặc dụng, nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien động, thực vật quí hiếm, đồng thời là các điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách.
1.1.2.5. Tài nguyên biển
Thanh Hoá có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi cho tàu thuyền đánh cá ra vào. Đây cũng là những trung tâm nghề cá của tỉnh. Ở vùng cửa lạch là những bãi bồi bùn cát rộng hàng ngàn ha, thuận lợi cho nuôi trồng hải sản, trồng cói, trồng cây chắn sóng và sản xuất muối. Diện tích nước mặn ở vùng biển đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, trai ngọc, tôm hùm và hàng chục ngàn ha nước mặn ven bờ thuận lợi cho nuôi nhuyễn thể vỏ cứng như ngao, sò…
Vùng biển Thanh Hoá có trữ lượng khoảng 100.000 - 120.000 tấn hải sản, với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao.
1.1.2.6. Tài nguyên khoáng sản
Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, có 296 mỏ và điểm khoáng sản với 42 loại khác nhau, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: đá granit và marble (trữ lượng 2 -3 tỉ m3), đá vôi làm xi măng (trên 370 triệu tấn), sét làm xi măng (85 triệu tấn), crôm (khoảng 21 triệu tấn), quặng sắt (2 triệu tấn), secpentin (15 triệu tấn), đôlômit (4,7 triệu tấn), ngoài ra còn có vàng sa khoáng và các loại khoáng sản khác.
1.1.2.7. Tài nguyên nước
Thanh Hóa có 4 hệ thống sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Bạng, sông Yên với tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39.756km2 tổng lượng nước trung bình hàng năm 19,52 tỉ m3. Sông suối Thanh Hoá chảy qua nhiều vùng địa hình phức tạp, là tiềm năng lớn cho phát triển thủy điện. Nước ngầm ở Thanh Hoá cũng rất phong phú về trữ lượng và chủng loại bởi vì có đầy đủ các loại đất đá trầm tích, biến chất, mac ma và phun trào.
1.2. Nguồn gốc dân cư
Thanh Hóa là tỉnh có dân số lớn thứ ba của Việt Nam hiện nay. Lịch sử hình thành và phát triển của xứ Thanh gắn liền với quá trình cộng cư của người Việt với người Mường và các dân tộc khác. Đồng thời có một bộ phận không nhỏ dân cư Thanh Hóa đang sinh sống tại các đô thị lớn trong nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vinh ... cũng như tại một số nước trên thế giới.
Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, Thanh Hóa có 3.400.239 người, đứng thứ ba Việt Nam, chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Trong tổng dân số năm 2009, nữ giới có 1.717.067 người, dân số thành thị là 354.880 người. Mật độ dân số vào loại trung bình: giảm từ 310 người/km² (năm 1999) xuống 305 người/km² (năm 2009). Tỉ số giới tính (số nam trên 100 nữ) tăng từ 95,6 % (năm 1999) lên 98,0 % (năm 2009), tương đương với mức chung của cả nước.
Thanh Hóa là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng chủ yếu có 7 dân tộc là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Người Kinh chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp, các dân tộc khác có dân số và địa bạn sống thu hẹp hơn, như người Khơ Mú chỉ sống chủ yếu ở 2 bản Đoàn Kết, xã Tén Tằn và Suối Lách, xã Mường Chanh, huyện Mường Lát.
1.3. Đời sống kinh tế
1.3.1. Nông, lâm, ngư nghiệp
Nông nghiệp
Thống kê đến năm 2004, toàn tỉnh có 239.843 ha đất nông nghiệp đang được sử dụng khai thác.
Năm 2002, tổng sản lượng lương thực cả tỉnh đạt 1,408 triệu tấn.
Năm 2003, tổng sản lượng nông nghiệp cả tỉnh đạt 1,5 triệu tấn, nguyên liệu mía đường 30.000 ha; cà phê 4.000 ha; cao su 7.400 ha; lạc 16.000 ha; dứa 1.500 ha; sắn 7.000 ha; cói 5.000 ha...
Lâm nghiệp
Rừng Thanh Hóa cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: voi, hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim... Đặc biệt ở phía nam của tỉnh có vườn quốc gia Bến En, phía Bắc có vườn quốc gia Cúc Phương, phía Tây bắc có khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, phía Tây nam có khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên là những nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien, động vật, thực vật quý, đồng thời là những điểm du lịch hấp dẫn.
Ngư nghiệp
Ngư nghiệp Thanh Hóa có nhiều điều kiện phát triển.
Thanh Hóa có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi cho tàu thuyền ra vào. Vì vậy Thanh Hóa có điều kiện phát triển ngư nghiệp rất tốt.
1.3.2. Ngành thương mại và Du lịch
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, thương mại Thanh Hóa đã có bước phát triển quan trọng. Trên địa bàn đã hình thành hệ thống bán buôn, bán lẻ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện lưu thông thuận tiện hàng hóa phục vụ nhu cầu đời sống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm, năm 2000 đạt trên 30 triệu USD, năm 2001 đạt 43 triệu USD và năm 2002 đạt 58 triệu USD. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, bên cạnh thị trường Nhật Bản, Đông Nam Á, một số doanh nghiệp đã xuất khẩu sang Mỹ, Châu Âu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là: nông sản (lạc, vừng, dưa chuột, hạt kê, ớt, hạt tiêu, cà phê...), hải sản (tôm, cua, mực khô, rau câu), hàng da giày, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ (các sản phẩm mây tre, sơn mài, chiếu cói...), đá ốp lát, quặng crôm...
Ngành sản xuất công nghiệp
Cũng như Việt Nam, nền công nghiệp Thanh Hóa không phát triển. Theo số liệu của tổng cục thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2009, chỉ số phát triển công nghiệp của toàn tỉnh tăng 8,2 %, đây là mức tăng cao so với mức tăng bình quân của cả nước là 4,6% (trong đó TP Hồ Chí Minh và Hà Nội chỉ tăng ở mức thấp là 0,4% và 2,7%). Tính đến thời điểm năm 2009, Thanh Hóa có 5 khu công nghiệp tập trung và phân tán. Một số khu công nghiệp:
Khu công nghiệp Bỉm Sơn - Thị xã Bỉm Sơn.
Khu công nghiệp Nghi Sơn (nằm trong Khu kinh tế Nghi Sơn) - Huyện Tĩnh Gia.
Khu công nghiệp Lễ Môn - Thành phố Thanh Hóa.
Khu công nghiệp Đình Hương (Tây Bắc Ga) - Thành phố Thanh Hóa.
Khu công nghiệp Lam Sơn - Huyện Thọ Xuân.
Hiện tại Thanh Hóa đang xây dựng khu kinh tế Nghi Sơn. Khu kinh tế này được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập và ban hành quy chế hoạt động số 102/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006. Khu kinh tế này nằm ở phía Nam của tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội 200 km, có đường bộ và đường sắt quốc gia chạy qua, có cảng biển nước sâu cho tầu có tải trọng đến 30.000 DWT cập bến. Khu kinh tế Nghi Sơn là một trung tâm động lực của vùng Nam Thanh Bắc Nghệ đang được quy hoạch, cũng được đánh giá là trọng điểm phát triển phía Nam của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, đồng thời là cầu nối giữa vùng Bắc Bộ với Trung Bộ, với thị trường Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan.
Đời sống văn hóa vật chất và đời sống văn hóa tinh thần
1.4.1. Đời sống văn hóa vật chất
Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú bao gồm các di sản thiên nhiên, truyền thống lịch sử phong phú, các làng nghề và các lễ hội truyền thống, những cảnh đẹp thiên nhiên phong phú và sự đa dạng của các nền văn hóa dân tộc. Từ khi đất nước đổi mới và hội nhập đến nay, với chiến lược phát triển văn hóa gắn với kinh tế du lịch, hoạt động văn hóa và du lịch tỉnh Thanh đã và đang đẩy mạnh việc gắn kết giữa hoạt động văn hóa với du lịch, trong đó lấy văn hóa làm động lực để phát triển du lịch và ngược lại du lịch phát triển đã tác động trở lại tạo đà để văn hóa thấm sâu vào tâm thức và thẩm mỹ của quần chúng. Các di tích khảo cổ thời đại đồ đá cũ: Núi Đọ, hang Con Moong, hang làng Tráng, mái đá Điều; thời đại đồ đá mới: Đa Bút, Cồn Cổ Ngựa, Gò Trũng, Hoa Lộc; thời kỳ văn hóa Đông Sơn với di chỉ khảo cổ học Đông Lĩnh, Cẩm Giang, Đông Sơn, núi Chè... đã thu hút giới nghiên cứu trong và ngoài nước và du khách tới tham quan, tìm hiểu về ngọn nguồn đời sống của con người từ thời kỳ đồ đá đến thời kỳ đồ đồng trên đất tỉnh Thanh.
Đến Thanh Hóa du khách sẽ được thưởng thức những món đặc sản độc đáo nổi tiếng cả nước của xứ Thanh như: nem chua Thanh Hóa, chè lam Phủ Quảng, dê núi đá, gà đồi (của huyện Vĩnh Lộc), bánh gai Tứ Trụ (của huyện Thọ Xuân), các món chế biến từ hến làng Giàng (huyện Thiệu Hóa), bánh đa cầu Bố (thành phố Thanh Hóa), mía đen Kim Tân (huyện Thạch Thành), hay các món hải sản: cua biển, ghẹ, sò huyết, tôm, mực, cá thu, cá tràu từ các huyện ven biển Sầm Sơn, Tĩnh Gia, Nga Sơn.
Đời sống văn hóa tinh thần
Thanh Hóa là một trong những địa bàn cư trú của người Việt cổ, nơi có nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ với trống đồng Đông Sơn là di vật độc đáo. Nhiều hang động đá vôi là những nơi cư trú của những nhóm người cổ từ hàng mấy ngàn năm. Thanh Hóa là đất có truyền thống văn hóa lâu đời được gọi là đất "địa linh nhân kiệt", đã cung cấp cho đất nước biết bao danh nhân văn hóa và anh hùng dân tộc, nơi phát tích của các triều Tiền Lê, Hậu Lê, Hồ, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn mà dấu ấn còn ghi lại ở các vùng quê với các đền đài, miếu mộ, lăng tẩm, thành quách. Hiếm có vùng đất nào lại sinh ra "ba dòng vua", "hai dòng chúa" như ở đất Thanh.
Thanh Hóa cũng là nơi có nhiều dân tộc ít người cư trú. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng. Hò sông Mã là một làn điệu dân ca đặt trưng nhất của đất Thanh.
Dân tộc Mường ở Thanh Hóa có kho tàng văn học dân gian phong phú với các trường ca, truyện thơ nổi tiếng. Có các làn điệu hát xéc bùa, hát ví và các điệu múa: múa bông, múa quạt, múa sạp...
Dân tộc Lào có vốn văn học dân gian phong phú với nhiều truyền t