Hiện nay nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Với chính sách mở cửa nền kinh tế trong bối cảnh quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đang được đẩy mạnh thì hoạt động thương mại quốc tế nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Trên thế giới, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không đã ra đời từ lâu, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng. Còn ở Việt Nam, tuy nghiệp vụ này đã được triển khai từ trước nhưng mới chỉ chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phát triển ngành vận tải hàng không còn chậm, khối lượng hàng hoá vận chuyển chưa nhiều.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta luôn tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định làm cho nhu cầu về vận tải hàng không ngày càng lớn. Khối lượng cũng như giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tăng lên đáng kể kéo theo nhu cầu bảo hiểm cho hàng hoá cũng tăng lên. Do vậy, đây chính là nghiệp vụ đầy tiềm năng mà ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và Bảo Việt nói riêng cần nghiên cứu và xem xét.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, trước sự ra đời của một loạt các công ty bảo hiểm mới cùng với quy luật cạnh tranh của cơ chế thị trường thì việc nghiên cứu nghiệp vụ bảo hiểm mới mẻ này là yêu cầu cấp thiết đối với Bảo Việt để đứng vững và duy trì được thị phần bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của mình. Đó chính là lý do mà em chọn đề tài "Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt " làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Đề tài được kết cấu theo 3 chương:
Chương I: Khái quát về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không
Chương II: Thực trạng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt
Chương III: Phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Vũ Sỹ Tuấn đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận. Xin cám ơn các cán bộ thuộc Phòng bảo hiểm Hàng hoá - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khoá luận này.
Tuy nhiên, do nhận thức còn hạn chế, lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên khoá luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến phê bình của các thầy cô giáo để khoá luận này được hoàn thiện hơn.
100 trang |
Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1657 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
--(((--
Hiện nay nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Với chính sách mở cửa nền kinh tế trong bối cảnh quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đang được đẩy mạnh thì hoạt động thương mại quốc tế nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Trên thế giới, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không đã ra đời từ lâu, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng. Còn ở Việt Nam, tuy nghiệp vụ này đã được triển khai từ trước nhưng mới chỉ chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phát triển ngành vận tải hàng không còn chậm, khối lượng hàng hoá vận chuyển chưa nhiều.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta luôn tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định làm cho nhu cầu về vận tải hàng không ngày càng lớn. Khối lượng cũng như giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tăng lên đáng kể kéo theo nhu cầu bảo hiểm cho hàng hoá cũng tăng lên. Do vậy, đây chính là nghiệp vụ đầy tiềm năng mà ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và Bảo Việt nói riêng cần nghiên cứu và xem xét.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, trước sự ra đời của một loạt các công ty bảo hiểm mới cùng với quy luật cạnh tranh của cơ chế thị trường thì việc nghiên cứu nghiệp vụ bảo hiểm mới mẻ này là yêu cầu cấp thiết đối với Bảo Việt để đứng vững và duy trì được thị phần bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của mình. Đó chính là lý do mà em chọn đề tài "Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt " làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Đề tài được kết cấu theo 3 chương:
Chương I: Khái quát về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không
Chương II: Thực trạng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt
Chương III: Phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Vũ Sỹ Tuấn đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận. Xin cám ơn các cán bộ thuộc Phòng bảo hiểm Hàng hoá - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khoá luận này.
Tuy nhiên, do nhận thức còn hạn chế, lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên khoá luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến phê bình của các thầy cô giáo để khoá luận này được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2002
Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Xuân
CHƯƠNG I :
KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
I. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC VỀ BẢO HIỂM
1. Sự ra đời, khái niệm và bản chất của bảo hiểm
1.1. Khái niệm rủi ro và sự ra đời của bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng, nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân như: do môi trường thiên nhiên, các sự cố xảy ra do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và cả từ phía môi trường xã hội. Vậy : thế nào là rủi ro?
"Rủi ro là những đe doạ nguy hiểm, không lường trước được, và là khả năng xảy ra tổn thất".
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con nguời những khó khăn trong cuộc sống. Chính vì vậy, đã có rất nhiều phương pháp đối phó với những rủi ro được con người áp dụng mà phương pháp có thể coi là ưu việt nhất là san sẻ rủi ro.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người có thể chế ngự và hạn chế được phần nào những hậu quả mà thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. Tuy nhiên, những tổn thất về người và của hàng năm con người phải gánh chịu vẫn còn rất lớn. Do vậy, để đủ sức đương đầu với thiên nhiên, khắc phục nhanh chóng hậu quả - tổn thất thì con người phải đoàn kết - hợp sức nhau lại. Một trong những cách hợp sức như vậy là tiến hành bảo hiểm, nghĩa là nhiều người cùng nhau góp tiền lập ra một quỹ chung để khi có rủi ro bất ngờ xảy ra thì trích từ quỹ chung đó bù đắp cho người bị nạn. Chỉ có như vậy, người bị nạn mới có thể nhanh chóng khắc phục được hậu quả nặng nề do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra.
Ý tưởng về việc hình thành một quỹ chung là tiền để đưa bảo hiểm trở thành một lĩnh vực kinh tế mới : "kinh tế bảo hiểm". Không giống như hình thức bảo hiểm sơ khai khi nhiều người cùng liên doanh khi có lợi nhuận thì chia nhau, có tổn thất thì cùng nhau san sẻ. Ngày nay, có các tổ chức bảo hiểm chuyên môn chịu trách nhiệm về các rủi ro trên cơ sở người chuyển nhượng rủi ro nộp một khoản phí bảo hiểm. Và như thế bảo hiểm đã ra đời cùng với sự xuất hiện của khái niệm rủi ro.
Bảo hiểm ra đời là do đòi hỏi khách quan của cuộc sống và của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đòi hỏi về sự tự chủ và sự an toàn về tính chất cũng như các nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Xã hội ngày nay, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia ngày càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng.
1.2. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm
Cho đến nay đã có rất nhiều khái niệm về bảo hiểm được đưa ra, như :
- Bảo hiểm là một hệ thống các biện pháp kinh tế nhằm tổ chức các quỹ bảo hiểm huy động từ các đơn vị và cá nhân tham gia bảo hiểm để bồi thường những tổn thất, thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra.
- Hay có thể định nghĩa : bảo hiểm là phương thức xử lý rủi ro, nhờ đó, việc chuyển giao, phân tán rủi ro trong từng nhóm người được thực hiện thông qua các công ty bảo hiểm.
- Bảo hiểm là chế độ cam kết bồi thường về mặt kinh tế, trong đó người được bảo hiểm phải đóng góp một khoản tiền được gọi là phí bảo hiểm cho đối tượng được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm đã được quy định, còn người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường những tổn thất của đối tượng bảo hiểm do các rủi ro đã bảo hiểm gây nên.
Điều này có nghĩa là : người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia.
Đây là một khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm.
Từ một số khái niệm trên, ta có thể thấy bảo hiểm chính là một ngành kinh doanh rủi ro mà đối tượng của nó chính là những rủi ro, sản phẩm là sự bồi thường và giá cả của ngành kinh doanh này chính là phí bảo hiểm.
Một vấn đề đặt ra là : các công ty bảo hiểm làm sao để có nguồn vốn đủ lớn để chi trả, bồi thường thiệt hại khi các rủi ro xảy ra? Ở đây, quy luật ‘‘số lớn’’ đã được vận dụng. Nghĩa là, với sự đóng góp tuy ít của nhiều người đã đem lại lượng vốn đủ lớn để trang trải cho một số ít người bị rủi ro.
Như vậy bản chất cuối cùng của bảo hiểm là sự phân tán rủi ro, chia nhỏ tổn thất của một hoặc một số ít người ra cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Hay nói cách khác, đó chính là quá trình phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngời xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm.
Rõ ràng là không phải tất cả những người mua bảo hiểm đều gặp rủi ro mà chỉ một số ít người. Những người không bị tổn thất hiển nhiên bị mất không số phí bảo hiểm đã đóng góp. Vậy : lý do gì khiến người ta mua bảo hiểm? Đó chính là do sự cần thiết của bảo hiểm.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm
Trong đời sống xã hội, con người phải thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại với tự nhiên để tồn tại và phát triển. Trong mối quan hệ đó, con người luôn phải chịu sự tác động của các quy luật khách quan của tự nhiên và của các điều kiện kinh tế - xã hội. Những tác động này có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Đối với những tác động tiêu cực, có những điều con người có thể khống chế và điều chỉnh được song cũng tồn tại những điều nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Rủi ro thuộc loại thứ hai. Vì vậy con người đã dùng nhiều biện pháp để đối phó với những rủi ro ấy :
a) Tránh rủi ro : tức là không làm một việc gì đó quá mạo hiểm, không chắc chắn. Dùng biện pháp này để đối phó với rủi ro là rất tiêu cực. Vì nếu muốn tránh rủi ro con người sẽ không dám làm bất cứ một việc gì và như vậy họ cũng sẽ chẳng thu được gì. Hơn nữa, tránh rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh được mà trong cuộc sồng lại luôn có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể né tránh được.
b) Ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, tổn thất: bằng những biện pháp đề phòng và hạn chế những hậu quả của nó. Biện pháp này có thể hạn chế được phần nào những hậu quả của rủi ro nhưng cũng vẫn không giải quyết hết được những thiệt hại.
c) Tự khắc phục rủi ro : là việc các công ty hay cá nhân dự trữ một khoản tiền nhất định để khi có rủi ro xảy ra thì dùng khoản tiền đó để bù đắp, khắc phục hậu quả. Biện pháp này còn được gọi là tự bảo hiểm. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hay nếu có đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất.
d) Chuyển nhượng rủi ro - bảo hiểm : là việc một cá nhân hay công ty khi tự mình không thể đương đầu với một hoặc một số rủi ro lớn, có tính chất thảm hoạ thì san sẻ bớt cho những công ty chuyên nghiệp bằng cách thuê các công ty chuyên nghiệp đó chịu trách nhiệm về các rủi ro thay mình. Khi người nhận trách nhiệm về các rủi ro là các công ty bảo hiểm thì biện pháp này gọi là bảo hiểm. Khi nhận trách nhiệm về các rủi ro, các công ty bảo hiểm phải bồi thường những thiệt hại do những rủi ro đã thoả thuận gây ra còn người chuyển nhượng rủi ro phải trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Biện pháp này không những khắc phục được những hạn chế của những biện pháp trên mà trong thực tế, nó đã mang lại lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị tham gia.
3. Vị trí, tác dụng của bảo hiểm đối với nền kinh tế quốc dân.
Với xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá như hiện nay, hoạt động bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Nó có một ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với các doanh nghiệp và đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển của sản xuất và đời sống, nhu cầu bảo hiểm càng lớn và đa dạng thì bảo hiểm càng phát huy rộng rãi những tác dụng của mình. Tuy nhiên, xét về tổng thể, bảo hiểm có những tác dụng cơ bản sau :
3.1. Bảo hiểm là một phương thức giúp tập trung được một nguồn vốn lớn, nguồn vốn này đầu tư lại vào nền kinh tế và giúp cho quá trình tái sản xuất xã hội phát triển
Quá trình tập trung vốn diễn ra dưới hình thức huy động sự đóng góp của các tổ chức, các cá nhân người tham gia bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm tập trung. Ở các nước có thị trường bảo hiểm phát triển cao thì các quỹ bảo hiểm có nguồn vốn lớn, là một trong những nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, là một phần quan trọng của thị trường tài chính.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây hoạt động của bảo hiểm ngày càng phát triển, chỉ tính riêng năm 1987 - là năm đầu nước ta bắt đầu thực hiện chính sách mới về kinh tế - toàn ngành bảo hiểm đã thu được xấp xỉ 1 tỷ đồng, gần bằng doanh thu suốt cả 20 năm hoạt động trước đó. Tiếp tục đà phát triển đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và nhiều loại hình bảo hiểm phong phú, tổng doanh thu bảo hiểm năm 1999 trên 2000 tỷ đồng với mức đầu tư trở lại nền kinh tế chiếm 0,5% GDP (khoảng 1648 tỷ đồng). Toàn bộ số vốn bảo hiểm tập trung được gửi vào tài khoản ngân hàng và ngân hàng sử dụng để đầu tư cho các ngành sản xuất. Để minh họa cho điều này, ta có bảng số liệu sau :
Bảng 1: Tình hình hoạt động kinh doanh bảo hiểm giai đoạn 1995 - 1999
(Đơn vị : tỷ đồng)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
1. Tổng doanh thu
- % GDP
1027
0,46
1253
0,47
1401
0,48
1811
0,56
2000
0,58
2. Bồi thường
- Tỷ lệ bồi thường (%)
604
58,8
663
52,9
630
45
632
34,9
650
32,5
3. Đầu tư trở lại nền kinh tế
- Chiếm tỷ lệ GDP (%)
75
0,03
157
0,06
962
0,3
1399
0,43
1648
0,48
4. Nộp ngân sách
84
100
105
110
120
(Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam, số 2/2000)
3.2. Thông qua việc giải quyết bồi thường thiệt hại, bảo hiểm có tác dụng góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống
Thông thường, người tham gia bảo hiểm chỉ thấy được vai trò này của bảo hiểm khi phát sinh trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm. Khi đối tượng bảo hiểm bị tổn thất thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ hay một phần số tiền thiệt hạI, lúc đó lợi ích của việc tham gia bảo hiểm mới rõ ràng. Ngược lại, khi chưa có tổn thất xảy ra với đối tượng bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm chưa thấy được sự cần thiết tất yếu của việc đóng góp hình thành nên quỹ bảo hiểm.
Do thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít nên hoạt động bảo hiểm tập trung được một lượng tiền khá lớn dùng để bù đắp những thiệt hại, mất mát về người và tài sản do các rủi ro, tai nạn bất ngờ xảy ra. Do đó, doanh nghiệp hay cá nhân người bị thiệt hại có thể phục hồi lại năng lực tài chính của mình, ổn định tình hình sản xuất kinh doanh và đời sống.
Việc thực hiện tốt giải quyết bồi thường sẽ khiến cho nhiều người thấy được vai trò của bảo hiểm trong cuộc sống của mình, và từ đó lôi cuốn được nhiều người hơn tham gia bảo hiểm. Nhờ đó, quỹ bảo hiểm ngày càng lớn và việc bồi thường lại càng được thực hiện tốt hơn.
3.3. Bảo hiểm còn góp phần tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người
Do đặc thù kinh doanh của mình, các công ty bảo hiểm thông qua việc thống kê thường xuyên các vụ tai nạn và tổn thất trong các lĩnh vực của đời sống, phát hiện nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt hại. Trên cơ sở đó đề xuất biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất nhằm giảm đến mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Mặt khác, với chức năng của mình, các tổ chức bảo hiểm tích cực đôn đốc người tham gia bảo hiểm tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản của mình nhằm hạn chế số vụ rủi ro và mức độ thiệt hại.
Về phía người tham gia bảo hiểm muốn được hưởng quyền lợi bồi thường khi có tổn thất xảy ra, bên cạnh trách nhiệm đóng phí, họ còn phải thực hiện trách nhiệm đề phòng và hạn chế tổn thất. Nếu người tham gia bảo hiểm thực hiện không tốt công tác bảo vệ và phòng tránh tổn thất do đối tượng bảo hiểm thì khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm có thể không bồi thường cho tổn thất hoặc giảm mức bồi thường. Điều này phù hợp với nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm : bảo hiểm không có nghĩa là trút hết trách nhiệm cho người bảo hiểm.
Với vai trò này, bảo hiểm cùng với người tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp để phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả, thiệt hại.
3.4. Bảo hiểm làm tăng tích luỹ và tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước, góp phần tăng thu và giảm chi ngoại tệ cho cán cân thanh toán
Với tính chất hoạt động kinh doanh dịch vụ, bảo hiểm phải tính đến hiệu quả và lợi nhuận thể hiện ở chênh lệch thu chi sau khi đã tổng hợp các khâu trong hoạt động bảo hiểm. Ngoài ra, phần chính của lợi nhuận lại là ở sự quay vòng vốn sinh lời trong phần nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm. Lợi nhuận thu được từ việc đầu tư kinh doanh của các công ty bảo hiểm đem lại cho các công ty này một nguồn thu đáng kể.
Theo báo "Thời báo kinh tế Việt Nam - ngày 12/8/2002" : hết 6 tháng đầu năm nay, doanh thu từ hoạt động đầu tư tài chính của Bảo Việt đạt 137 tỷ đồng, tăng 68% so với cùng kỳ năm 2001. Tổng nguồn vốn đầu tư tăng bình quân 50% so với cùng kỳ năm 2001, đến nay đạt gần 4.000 tỷ đồng. Bảo Việt còn đầu tư vào các lĩnh vực khác như : trái phiếu Chính phủ, cho vay theo dự án.
Qua hoạt động đầu tư sinh lời, bảo hiểm nộp một phần vào ngân sách Nhà nước theo luật định góp phần tăng tích luỹ cho ngân sách, do đó chi tiêu cho phúc lợi tăng, đời sống nhân dân được cải thiện. Phần còn lại để phát triển, mở rộng hoạt động bảo hiểm phục vụ cho lợi ích chung của nền kinh tế.
Mặt khác, để nâng cao hiệu quả hoạt động, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm đều tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Từ đó, Nhà nước giảm bớt được gánh nặng về y tế, làm lại các công trình công cộng … Ngân sách Nhà nước sẽ tiết kiệm được một khoản lớn để đầu tư vào những ngành sản xuất chính, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động cũng như thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đối với Bảo Việt, một doanh nghiệp Nhà nước lớn trong lĩnh vực bảo hiểm, tổng nộp ngân sách trong 5 năm gần đây được thể hiện qua đồ thị sau :
Bảng 2 : Tổng nộp ngân sách Nhà nước của Bảo Việt từ 1997 - 2001
(Nguồn : report)
Thêm vào đó, khi mở rộng và phát triển các loại hình bảo hiểm trong nước, các công ty, doanh nghiệp trong nước sẽ không phải mua bảo hiểm của nước ngoài, các công ty nước ngoài tại Việt Nam cũng có thể mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm Việt Nam. Do đó làm tăng thu và giảm chi ngoại tệ cho Nhà nước.
3.5. Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài, nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm
Xu thế đổi mới của hoạt động sản xuất và giao lưu hàng hoá với nước ngoài ở nước ta ngày càng phát triển, đòi hỏi nhu cầu bảo hiểm càng lớn nhằm làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển ổn định, đảm bảo đủ khả năng trang trải khi thiệt hại rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo hiểm có trường hợp giá trị của đối tượng bảo hiểm vượt quá khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm, đặc biệt là các công ty bảo hiểm Việt Nam - với khả năng tài chính còn hạn chế, nên các công ty bảo hiểm phải thực hiện hình thức tái bảo hiểm - mà chủ yếu là với các công ty bảo hiểm lớn hơn của nước ngoài. Khi thực hiện tái bảo hiểm thì rủi ro sẽ được san sẻ và cũng làm cho các mối quan hệ hợp tác ngày càng được mở rộng.
Từ những phân tích trên, ta có thể thấy rõ vị trí quan trọng của bảo hiểm đối với nền kinh tế quốc dân. Với những tác dụng thiết thực của mình, bảo hiểm đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của đời sống xã hội. Tuy nhiên, để thực hiện những vai trò này, tất cả các bên tham gia vào hoạt động bảo hiểm đều phải tuân thủ tuyệt đối những nguyên tắc của bảo hiểm.
4. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm
Giống như các ngành kinh doanh khác, bảo hiểm cũng có những nguyên tắc hoạt động riêng. Nguyên tắc đầu tiên và cơ bản nhất của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít, san sẻ và phân tán rủi ro. Quỹ bảo hiểm được hình thành từ nguồn phí bảo hiểm do những người tham gia bảo hiểm đóng góp, sau đó nó được phân phối lại cho một số ít người gặp rủi ro. Phí bảo hiểm chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với giá trị bảo hiểm, do vậy, phải tính toán chính xác sao cho vừa đảm bảo kinh doanh bảo hiểm có lãi vừa đảm bảo được khách hàng chấp nhận.
Ngoài nguyên tắc trên thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn phải tôn trọng các nguyên tắc cơ bản sau :
4.1. Nguyên tắc bảo hiểm rủi ro chứ không bảo hiểm cái chắc chắn
Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm rủi ro tức là bảo hiểm một sự cố tai nạn, tai hoạ xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm cái chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra, có thể lường trước được cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại do rủi ro gây ra chứ không bồi thường những thiệt hại chắc chắn hay đương nhiên xảy ra.
4.2. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối
Theo nguyên tắc này, bảo hiểm phải tiến hành trên cơ sở trung thực và tin tưởng lẫn nhau giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm thể hiện ở :
- Người bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện, nguyên tắc, thể lệ, biểu phí cho người được bảo hiểm biết; không được nhận bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đã đến nơi an toàn hay