Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển nhanh, bền vững nhất đối với mỗi quốc gia đó là chú trọng hàng đầu của chính phủ đến công tác đổi mới hệ thống Giáo dục – Đào tạo, đầu tư, quan tâm đến giáo dục, tạo tiền đề quan trọng cho việc phát triển nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước. Việt Nam trong giai đoạn hiện nay với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra nhanh, mạnh, có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên cả nước, trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng phát triển giáo dục đào tạo, coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu". Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: " Giáo dục và Đào tạo cùng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu". Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ: "Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". [4, tr1]
Một trong các yếu tố quyết định cho sự thành công của giáo dục là đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục có vai trò quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục của mỗi nhà trường, mỗi cơ sở giáo dục.
Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục nước ta được xây dựng ngày càng đông đảo, phần lớn có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng nâng cao. Đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa. Đội ngũ CBQL còn thiếu so với nhu cầu, số lượng CBQL có trình độ chuyên môn, trình độ quản lý tốt còn ít, tính chuyên nghiệp của đội ngũ CBQL chưa cao, đặc biệt trong tham mưu, xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện.v.v.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ, trong những năm qua Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ luôn bám sát đường lối công tác cán bộ của Đảng, có sự vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn địa phương. Mặc dù, công tác xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Hạ Hoà hiện nay xét về số lượng, cơ cấu và chất lượng chưa đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao của giáo dục và nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay là rất quan trọng đối với ngành Giáo dục – Đào tạo huyện nhà. Chính vì những lý do nêu trên nên tôi chọn đề tài nghiên cứu “Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011-2020”.
133 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển nhanh, bền vững nhất đối với mỗi quốc gia đó là chú trọng hàng đầu của chính phủ đến công tác đổi mới hệ thống Giáo dục – Đào tạo, đầu tư, quan tâm đến giáo dục, tạo tiền đề quan trọng cho việc phát triển nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước. Việt Nam trong giai đoạn hiện nay với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra nhanh, mạnh, có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên cả nước, trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng phát triển giáo dục đào tạo, coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu". Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: " Giáo dục và Đào tạo cùng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu". Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ: "Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". [4, tr1]
Một trong các yếu tố quyết định cho sự thành công của giáo dục là đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục có vai trò quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục của mỗi nhà trường, mỗi cơ sở giáo dục.
Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục nước ta được xây dựng ngày càng đông đảo, phần lớn có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng nâng cao. Đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa. Đội ngũ CBQL còn thiếu so với nhu cầu, số lượng CBQL có trình độ chuyên môn, trình độ quản lý tốt còn ít, tính chuyên nghiệp của đội ngũ CBQL chưa cao, đặc biệt trong tham mưu, xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện.v.v.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ, trong những năm qua Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ luôn bám sát đường lối công tác cán bộ của Đảng, có sự vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn địa phương. Mặc dù, công tác xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Hạ Hoà hiện nay xét về số lượng, cơ cấu và chất lượng chưa đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao của giáo dục và nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay là rất quan trọng đối với ngành Giáo dục – Đào tạo huyện nhà. Chính vì những lý do nêu trên nên tôi chọn đề tài nghiên cứu “Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011-2020”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, phù hợp với tình hình phát triển giáo dục Tiểu học ở địa phương, đáp ứng yêu cầu của giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Đội ngũ cán bộ quản lý các trường Tiểu học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu và đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học.
4.2. Giới hạn địa bàn nghiên cứu:
Các trường Tiểu học thuộc huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ.
4.3 Giới hạn về khách thể điều tra:
- Thành phần: Đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học bao gồm: Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng.
- Số lượng: 68 Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng.
5. Giả thuyết khoa học.
Đội ngũ CBQL trường Tiểu học sẽ phát triển cân đối và đồng bộ, đáp ứng được sự phát triển của giáo dục và đào tạo nói chung và của giáo dục Tiểu học nói riêng, nếu đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học được phát triển trên cơ sở một hệ thống các biện pháp có căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu.
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài.
6.3 Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu.
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Ngành giáo dục và các tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động quản lý của các Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học thuộc địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp lãnh đạo, chuyên viên phòng giáo dục; điều tra bằng phiếu hỏi đối với Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng và một số giáo viên các trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các chuyên gia về công tác tổ chức cán bộ và các nhà nghiên cứu về quản lý giáo dục bậc Tiểu học.
- Phương pháp điều tra, khảo sát…
7.3 Phương pháp thống kê toán học: Dùng để xử lý các kết quả nghiên cứu.
8. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương với nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường Tiểu học.
Chương 2: Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý và công tác phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Một số biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011-2020.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học.
Từ thuở bình minh của nhân loại, quản lý là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Hoạt động quản lý bắt nguồn tự sự phân công, hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đạt hiệu quả tốt hơn, năng suất cao hơn. Trong công việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp điều hành, kiểm tra, chỉnh lý...phải có người đứng đầu. Đây là hoạt động giúp người thủ trưởng, người đứng đầu phối hợp nỗ lực của các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong tổ chức đạt mục tiêu đề ra.
Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đất nước, quản lý nói chung, quản lý giáo dục nói riêng là vấn đề luôn được sự thu hút, quan tâm của các nhà lãnh đạo, các nhà khoa học và các nhà quản lý.
Vấn đề quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục là vấn đề có ý nghĩa trong việc " Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài", đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo của nhà trường.
Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục của các tác giả như: "Những vấn đề về quản lý trường học" (P.V Zimin, M.I Kônđakốp), "Quản lý vấn đề quốc dân trên địa bàn huyện", (M.I Kônđakốp). Nhà giáo dục học Xô-viết V.A Xukhomlinxki khi tổng kết những kinh nghiệm quản lý chuyên môn trong vai trò là Hiệu trưởng nhà trường cho rằng " Kết quả hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào công việc tổ chức đúng đắn các hoạt động dạy học". Cùng với nhiều tác giả khác ông đã nhấn mạnh đến sự phân công, sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất quản lý giữa Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng để đạt được mục tiêu đề ra.
Ở Việt Nam, từ những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ trước cho đến nay đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục có giá trị đó là: "Giáo trình khoa học quản lý" của tác giả Phạm Trọng Mạnh (NXB ĐHQG Hà Nội năm 2011); "Khoa học tổ chức và quản lý một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức quản lý (NXB thống kê Hà Nội 1999); " Tâm lý xã hội trong quản lý" của Ngô Công Hoàn (NXB ĐHQG Hà Nội năm 2002); "Tập bài giảng lý luận đại cương về quản lý" của tác giả Nguyễn Quốc Chí và tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc (Hà Nội 1998)...Bên cạnh đó còn một số bài viết đề cập đến quản lý giáo dục như: " Vấn đề kinh tế thị trường, quản lý nhà nước và quyền tự chủ các trường học" của tác giả Trần Thị Bích Liễu - Viện KHGD đăng trên tạp chí giáo dục số 43 tháng 11 năm 2002.
Từ trước đến nay có nhiều đề tài nghiên cứu về việc phát triển đội ngũ CBQL trường học nói chung và CBQL trường tiểu học nói riêng. Tuy nhiên trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, huyện Hạ Hoà chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học.
Việc nghiên cứu đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn trong việc đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục tiểu học của địa phương trong điều kiện mới.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
1.2.1. Khái niệm “biện pháp”.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Viện khoa học xã hội Việt Nam thì biện pháp có nghĩa là: Cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
1.2.2 Khái niệm “Phát triển”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, phát triển là " Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp" [29, tr37].
Phát triển là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như
phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển nguồn nhân lực, phát triển đội ngũ. Còn theo quan điểm triết học, phát triển là khái niệm biểu hiện sự thay đổi tăng tiến cả về chất, cả về không gian lẫn thời gian của sự vật, hiện tượng và con người trong xã hội. Như vậy, phát triển được hiểu là sự tăng trưởng, là sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực, tiến lên.
Theo tác giả Đặng Bá Lãm, " Phát triển là một quá trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, theo đó cái cũ chuyển biến mất và cái mới ra đời...v.v. Phát triển là một quá trình nội tại: bước chuyển từ thấp lên cao xảy ra bởi vì trong cái thấp đã chứa đựng dưới dạng tiềm tàng những khuynh hướng dẫn đến cái cao. Còn cái cao là cái thấp đã phát triển". [19, Tr 20]
1.2.3 Khái niệm “Đội ngũ”:
Có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về đội ngũ. Ngày nay khái niệm đội ngũ được dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi như: "Đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ trí thức, đội ngũ y, bác sỹ..." đều xuất phát theo cách hiểu của thuật ngữ quân sự về đội ngũ đó là: " Khối đông người được tập hợp lại một cách chỉnh tề và được tổ chức thành lực lượng chiến đấu".
Khái niệm đội ngũ tuy có các cách hiểu khác nhau nhưng đều có chung một điểm đó là: Một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay không cùng nghề nghiệp nhưng đều có chung một mục đích nhất định.
Từ các cách hiểu trên, có thể nêu chung: Đội ngũ là một tập thể gồm số đông người, có cùng lý tưởng, cùng mục đích, làm việc theo sự chỉ huy thống nhất, có kế hoạch, gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất cũng như tinh thần.
1.2.4 Khái niệm “Cán bộ”.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Viện khoa học xã hội Việt Nam thì cán bộ có nghĩa là:
Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước.
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường không có chức vụ.
1.2.5 Khái niệm “Quản lý”.
Theo Từ điển Tiếng Việt thuật ngữ "quản lý" được định nghĩa là: "Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan".
Quản lý là hoạt động có mục đích, được tiến hành bởi một chủ thể quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để thực hiện các mục tiêu xác định của công tác quản lý. Trong mỗi chu trình quản lý, chủ thể quản lý tiến hành những hoạt động theo chức năng quản lý như xác định mục tiêu, hoạch định các chủ trương, chính sách, kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện, phối hợp, kiểm tra, huy động và sử dụng các nguồn lực cơ bản như tài lực, vật lực, nhân lực...để thực hiện các mục tiêu, mục đích mong muốn trong bối cảnh và thời gian nhất định.
Trong cuốn " Lý luận quản lý nhà nước" của tác giả Mai Hữu Khuê, xuất bản năm 2003 có định nghĩa về quản lý như sau: "Quản lý là một phạm trù có liên quan mật thiết với hiệp tác và phân công lao động, nó là một thuộc tính tự nhiên của mọi lao động hiệp tác. Từ khi xuất hiện những hoạt động quần thể của loài người thì đã xuất hiện sự quản lý. Sự quản lý đã có trong cả xã hội nguyên thuỷ, ở đó con người phải tập hợp với nhau để đấu tranh với thế giới tự nhiên, muốn sinh tồn con người phải tổ chức sản xuất, tổ chức phân phối".
F.W.Taylor cho rằng: "Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất".
H.Koontz thì khẳng định: "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm". Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận thức được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được thành công theo ý muốn.
Theo quan điểm chính trị xã hội: " Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế...bằng một hệ thống luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng"
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người quản lý đến tập thể người bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức đặt ra. Vì vậy, nhiệm vụ của quản lý là biến đổi mối quan hệ trên thành những yếu tố tích cực, hạn chế xung đột và tạo nên môi trường thuận lợi để hướng tới mục tiêu. Đó là "bí quyết" làm việc của người quản lý được khám phá trên sự đúc rút kinh nghiệm thực tế. Những kinh nghiệm thực tế được khái quát hoá thành những nguyên tắc, phương pháp, kỹ năng quản lý cần thiết, đó chính là khoa học – khoa học quản lý. Do đó, ta có thể nói rằng: Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.
+ Quản lý gồm hai thành phần: Chủ thể quản lý và khách thể quản lý:
- Chủ thể quản lý là người hoặc tổ chức do con người cụ thể lập nên.
- Khách thể quản lý có thể là người, tổ chức, vừa có thể là vật cụ thể như: Môi trường, thiên nhiên, đoàn xe..., vừa có thể là sự việc như: luật lệ, quy chế, quy định...Cũng có khi khách thể, tổ chức được con người đại diện trở thành chủ thể quản lý cấp dưới thấp hơn.
Giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý có mối quan hệ tác động qua lại, tương hỗ nhau. Theo Nguyễn Minh Đạo "Chủ thể làm nảy sinh các tác động quản lý, còn khách thể thì sản sinh các giá trị vật chất và tinh thần có giá trị sử dụng, trực tiếp đáp ứng nhu cầu của con người, thoả mãn mục đích của chủ thể quản lý". [9, tr 7]
Trong quản lý, chủ thể quản lý phải có tác động phù hợp và sắp xếp hợp lý các tác động nhằm đạt mục tiêu. Do đó quản lý phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa tri thức và lao động. Muốn phát huy tiềm năng của đối tượng quản lý (đặc biệt là con người) thì phải có cơ chế đúng.
Nguyễn Minh Đạo cho rằng "Chức năng quản lý là loại hình đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm của tiến trình phân công lao động và chuyên môn hoá việc quản lý".[9, Tr 64].
Chức năng quản lý là những nội dung và phương thức hoạt động cơ bản mà nhờ đó chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý trong quá trình quản lý nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Tổ hợp tất cả các chức năng quản lý tạo nên nội dung của quá trình quản lý. Chức năng quản lý được quy định một cách khách quan bởi hoạt động của khách thể quản lý.
Henry Fayol đã đưa ra 5 chức năng sau đây mà người ta gọi là 5 yếu tố của Fayol: Kế hoạch hoá, tổ chức, ra lệnh, phối hợp, kiểm tra và đánh giá.
Trong cuốn "Cơ sở khoa học quản lý" Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1997, có nêu các chức năng quản lý gồm: Kế hoạch hoá - tổ chức - phối hợp - điều chỉnh, kích thích - kiểm tra, hạch toán.
Sau khi nghiên cứu, tổng kết các nhà nghiên cứu cho rằng quản lý có 4 chức năng cơ bản là 4 khâu liên quan mật thiết với nhau, đó là:
. Kế hoạch hoá: Là làm cho việc thực hiện có kế hoạch trên diện rộng, quy mô lớn. Căn cứ vào thực trạng và dự định của tổ chức để xác định mục tiêu, mục đích, xác định những biện pháp trong thời kỳ nhằm đạt mục tiêu dự định.
. Tổ chức: Là quá trình hình thành nên những cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, bộ phận nhằm đạt mục tiêu kế hoạch. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp điều phối các nguồn lực, vật lực, nhân lực.
. Chỉ đạo: Đó chính là phương thức tác động của chủ thể quản lý. Lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác, động viên họ hoàn thành nhiệm vụ để đạt được mục tiêu của tổ chức.
. Kiểm tra: Thông qua một cá nhân, hay một nhóm tổ chức để xem xét thực tế, theo dõi, giám sát thành quả hoạt động, tiến hành uốn nắn, sửa chữa những hoạt động sai. Đây chính là quá trình tự điều chỉnh của hoạt động quản lý.
Với các chức năng đó, quản lý có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Nó nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm bảo trật tự, kỷ cương trong bộ máy và nó là nhân tố tất yếu của sự phát triển.
Cơ chế quản lý là phương thức mà nhờ nó hoạt động quản lý được diễn ra, quan hệ tương tác giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý được thực hiện (vận hành và phát triển). Để thực hiện quá trình quản lý phải có các điều kiện, phương tiện quản lý. Đó không chỉ là máy móc, kỹ thuật mà còn là nhân cách của nhà quản lý (phẩm chất, năng lực). Còn hiệu quả quản lý là sản phẩm kép, nghĩa là trong quá trình quản lý, đối tượng quản lý phát triển và phẩm chất, năng lực của nhà quản lý cũng phát triển.
Hoạt động quản lý có thể được sơ đồ hoá như sau
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ về quản lý
Chủ thể quản lý
Mục tiêu quản lý
Cơ chế quản lý
Đối tượng quản lý
Tóm lại: Quản lý là sự tác động có ý thức để điều khiển, hướng dẫn các quá trình và các hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đúng với ý chí của nhà quản lý và phù hợp với các quy luật khách quan.
1.2.6 Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường.
1.2.6.1. Khái niệm Quản lý giáo dục:
Nhà nước quản lý mọi mặt hoạt động, trong đó có hoạt động giáo dục. Vậy, quản lý Nhà nước về giáo dục là tập hợp những tác động hợp quy luật được thể chế hoá bằng pháp luật của chủ thể quản lý nhằm tác động đến các phân hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất lượng, hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ.
Theo M.I. Kônđacốp: "Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến Trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý của trẻ em". [18, Tr 10].
Theo Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc: " Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạ