Đề tài Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại xí nghiệp ô tô V75

Nền kinh tế nước ta đang vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước và chịu sự tác động của các quy luật như: quy luật cạnh tranh quy luật cung cầu, quy luật giá trị. Trong đó quy luật cạnh tranh có tác động chi phối. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp buộc doanh nghiệp phải luôn phấn đấu để có thể tồn tại và phát triển.

doc42 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại xí nghiệp ô tô V75, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Nền kinh tế nước ta đang vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước và chịu sự tác động của các quy luật như: quy luật cạnh tranh quy luật cung cầu, quy luật giá trị... Trong đó quy luật cạnh tranh có tác động chi phối. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp buộc doanh nghiệp phải luôn phấn đấu để có thể tồn tại và phát triển. Quá trình xem xét, phân tích, đánh giá tình hình biến động của lợi nhuận sau mỗi kỳ kinh doanh giúp doanh nghiệp phát hiện ra những điều bất cập, những điều bất hợp lý từ đó đề ra các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy đi sâu vào nghiên cứu lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận là rất cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp em đã chọn đề tài nghiên cứu: "Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại xí nghiệp ô tô V75" Chuyên đề bao gồm 2 chương chính: Chương I: Lý luận chung về lợi nhuận. Chương II: Tình hình lợi nhuận ở xí nghiệp ô tô V75 và một số giải pháp nâng cao lợi nhuận. Chuyên đề này được hoàn thành nhưng không tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế đòi hỏi phải có sự nghiên cứu thêm cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy em mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy cô để em hoàn thiện chuyên đề này. chương i: lý luận chung về lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận. i. lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận Khái niệm lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận là mục tiêu rất quan trọng, là mục tiêu cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp đều phải hướng tới. Mỗi doanh nghiệp có thể có nhiều mục tiêu: đảm bảo hoạt động bền vững, tìm kiếm lợi nhuận, phục vụ khách hàng, nhưng mục tiêu cối cùng của những hoạt động này là vì lợi nhuận cho doanh nghiệp. Lợi nhuận không chỉ giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển mà còn là tiền đề cho các hoạt động vì xã hội. Vì vậy mà khi tiến hành bất cứ một hoạt động kinh doanh nào người ta đều phải tính toán đến lợi nhuận mà dự án kinh doanh đó đem lại. Các doanh nghiệp đòi hỏi phải phát huy tối đa khả năng và tinh thần tự chủ của mình để tạo lập thu nhập và thu lợi nhuận để thúc đẩy sự phát triển cho doanh nghiệp mình. Chính tính cạnh tranh găy gắt của thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, đạt mục tiêu lợi nhuận làm cơ sở nội lực cho doanh nghiệp mình trong các kỳ kinh doanh tiếp theo. Vì vậy xét trên góc độ doanh nghiệp ta thấy lợi nhuận là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất, kinh doanh, là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả của các hoạt động kinh tế, nó là khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập và chi phí bỏ ra để đạt được thu nhập đó trong một thời kì nhất định. Thông thường một hoạt động kinh doanh thành công là hoạt động mang lại lợi nhuận dương. Thực tế, dưới tác động phức tạp của các yếu tố thị trường, chính trị, xã hội, không phải hoạt động kinh doanh nào cũng đem lại lợi nhuận dương mong muốn. Công thức xác định lợi nhuận như sau: Lợi nhuận = Thu nhập - Chi phí Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Rất nhiều nhà kinh tế học, các nhà nghiên cứu kinh tế nghiên cứu về bản chất cũng như nguồn gốc của lợi nhuận. Theo A.Smith một nhà kinh tế học cổ điển ông là người đầu tiên đưa ra những kết luận nghiên cứu khá toàn diện về kinh tế thị trường, về lợi nhuận. Theo ông lợi nhuận của nhà tư bản được sinh ra trong quá trình sản xuất là hình thái khác của giá trị thặng dư tức là phần giá trị không được trả công tạo ra. Từ đó ông định nghĩa lợi nhuận : "Lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động. Kế thừa hạt nhân đúng đắn của A.Smith, D.Ricardo đã phân tích và tìm hiểu kĩ hơn về nguồn gốc và bản chất lợi nhuận trong xã hội chủ nghĩa tư bản. Ông cũng hoàn toàn dựa vào giá trị lao động để phân tích và chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng định lao động là nguồn gốc của giá trị và giá trị sản phẩm hàng hoá đựoc phân thành nguồn thu nhập tiền lương, địa tô và lợi nhuận. Cũng giống A. Smith ông cho rằng giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn nhiều số tiền công mà họ đáng được hưỏng, tức là trong giá trị mới sáng tạo ra nhờ lao động có giá trị thặng dư do công nhân làm ra nhưng không được trả công. Từ đó ông đi đến kết luận: "Lợi nhuận chính là phần lao động dư thừa ngoài tiền lương, lợi nhuận chính là lao động không được trả công của người công nhân". Về quan hệ giữa tiền công và lợi nhuận ông cho rằng lợi nhuận phụ thuộc vào mức tăng năng suất của lao động đôí nghịch với tiền công. Khi năng suất lao động tăng lên thì tiền công của công nhân giảm xuống và lợi nhuận của nhà tư bản tăng lên, về mặt chính trị xã hội ông nêu rõ lượng hàng hoá mà công nhân có thể mua được từ tiền công của mình chưa quyết định địa vị xã hội của người đó. Đối lập với D.Ricardo một nhà kinh tế học khác là B.Say cho rằng có ba nhân tố tham ra vào quá trình sản xuất là lao đọng, tư bản và ruộng đất. Mỗi nhân tố đều có công phục vụ mà cái gì tạo ra phục vụ đều là sản xuất do đó không chỉ có lao động mà cả tư bản, và tự nhiên đều tạo ra giá trị. Công phục vụ của ba nhân tố trên đựoc thực hiện ở lao động tạo ra tiền lương, tư bản tạo ra lợi nhuận, ruộng đất sáng tạo ra địa tô. Vì vậy có thu nhập tương ứng là: công nhân được tiền lương, nhà tư bản được hưởng lợi nhuận, địa chủ được nhận địa tô. B.Say cho rằng lợi tức của kẻ sở hữu tư bản là con đẻ của bản thân tư bản và lợi nhuận là phần thưởng đích đáng của việc đầu tư tư bản để kinh doanh. Kế thừa và phát huy các quan điểm đúng đắn, khoa học của những lí luận tiền bối, K.Marx đã nghiên cứu một cách toàn diện, triệt để về bản chất, nguồn gốc lợi nhuận kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng định nguồn gốc của lợi nhuận là do lao động làm thuê tạo ra, còn về bản chất thì lợi nhuận là hình thái biểu hiện giá trị thặng dư, là kết quả của lao động không được trả công do nhà tư bản chiếm lấy, là quan hệ nô dịch và bóc lột lao động trong xã hội tư bản. K.Marx là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh học thuyết giá trị thặng dư và khẳng định rằn giá trị thặng dư tồn tại và phát triển hòn toàn tuân theo quy luật giá trị. Học thuyết giá trị thặng dư được coi là nền tảng của học thuyết kinh tế Macxit và nhờ có học thuyết này toàn bộ bí mật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được vạch trần và nó trở thành một trong hai căn cứ để chủ nghĩa xã hội không tưởng trở thành khoa học. Vai trò và kết cấu lợi nhuận trong doanh nghiệp. 3.1 Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt lợi nhuận luôn giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế đầy rủi ro và thách thức. Về phía nhà nước, lợi nhuận thu được thông qua các hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp là một phần nguồn tích luỹ xã hội. Lợi nhuận của doanh nghiệp là nguồn tích luỹ quan trọng tạo nên thu nhập của ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế thu nhập doanh nghiệp, thếu sử dụng ngân sách nhà nước đối với doanh nghiệp sử dụng ngân sách nhà nước cấp. Về phía doanh nghiệp lợi nhuận là thước đo chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh. Nếu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ mà thu được lợi nhuận càng cao thì việc tổ chức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng tác động đến việc hoàn thiện mọi mặt của doanh nghiệp. Để đạt được lợi nhuận cao nhất thì yêu cầu các mặt của doanh nghiệp cũng phải thực hiện tốt nhất. Với doanh nghiệp lợi nhuận còn là nguồn tích luỹ cơ bản để mở rộng sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp có điều kiện tích luỹ, mua sắm máy móc thiết bị, khuyến khích đổi mới và tăng cường vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, củng cố thêm thế mạnh và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Về phía người lao động, khi lợi nhuận tăng thì tiền lương của nhân công cũng tăng lên nó sẽ là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy việc tăng năng suất lao động , phát huy khả năng sáng tạo, nâng cao đời sống tinh thần vật chất cho họ. Tóm lại lợi nhuận có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, hơn thế lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nền kinh tế quốc dân, lợi nhuận làm cho doanh nghiệp, nhà nước, người lao động có quan hệ gắn bó cùng phát triển. 3.2 Kết cấu lợi nhuận trong doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định tổng hợp từ ba hoạt động: kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là bộ phận chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được, nó có ý nghĩa quyết định đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận hoạt động kinh doanh là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ với tổng giá thành hàng hoá sản phẩm các khoản chi phí phân bổ cho số sản phẩm được tiêu thụ và các khoản thuế phải nộp trong kỳ. Lợi nhuận hoạt động tài chính là khoản chênh lệch giưa thu nhập từ hoạt động tài chính và chi phí bỏ ra cho hoạt động đó. Các hoạt động tài chính bao gồm các hoạt động liên doanh liên kết, hoạt động đầu tư chứng khoán, hoạt động cho thuê tài sản, gửi tiền ngân hàng, các hoạt động cho vay thuộc nguồn vốn và quỹ của doanh nghiệp hoà nhập số dư khoản dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán. Lợi nhuận hoạt động bất thường là khoản chênh lệch giữa thu nhập bất thường phát sinh trong kỳ. Các hoạt động bất thường diễn ra trong kỳ bao gồm nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, kiểm kê vật tư thừa, nợ khó đòi, nợ phải trả không xác định được chủ. Đây là các khoản xảy ra không thường xuyên trong doanh nghiệp mà doanh nghiệp không dự tính trước. Tổng lợi nhuận trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp được xác định như sau: Lợi nhuận hoạt động bất thường + Lợi nhuận hoạt động tài chính + Lợi nhuận hoạt động kinh doanh = Lợi nhuận doanh nghiệp Ngoài cách đánh giá lợi nhuận theo cách này ta còn đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp dựa trên chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận tương đối là tỷ suất lợi nhuận: - Tỷ suất lợi nhuận chi phí: là quan hệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với chi phí kinh doanh trong kỳ: Tỷ suất Lợi nhuận trong kỳ lợi nhuận = x 100% chi phí Chi phí kinh doanh trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi phí của doanh nghiệp bỏ ra sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất này càng cao càng tốt. - Tỷ suất lợi nhuận vốn: là quan hệ giưa số lợi nhuận đạt được với số vốn sử dụng bình quân trong kỳ. Lợi nhuận trong kỳ Tỷ suất = x 100% lợi nhuận vốn Tổng số vốn bình quân sử dụng trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn của doanh nghiệp bỏ ra sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất này càng cao càng tốt. Đồng thời phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Tỷ suất lợi nhuận doanh thu: Tỷ lệ giữa lợi nhuận và doanh thu đạt được trong kỳ. Tỷ suất Lợi nhuận trong kỳ lợi nhuận = x 100% doanh thu Doanh thu bán hàng trong kỳ Ngoài ra do nhu cầu quản lý, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận khác như: tỷ suất lợi nhuận chi phí bán hàng, tỷ suất lợi nhuận giá vốn hàng bán... ii. phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp 1. Xác định lợi nhuận hoạt động kinh doanh Lợi nhuận hoạt động kinh doanh - - = Thuế nộp ở khâu tiêu thụ Chi phí kinh doanh hợp lệ Doanh thu thuần Trong đó để xác định các thành phần ta có: 1.1 Xác định doanh thu thuần = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ - Hàng bán bị trả lại - Các khoản giảm giá hàng bán Doanh thu thuần Chi phí quản lý doanh nghiệp Chi phí kinh doanh hợp lệ 1.2 Xác định chi phí kinh doanh hợp lệ Chi phí bán hàng Trị giá vốn hàng bán + + = Trong đó ta có: Đối với doanh nghiệp thương mại Trị giá vốn hàng bán Giá mua hàng đã bán Chi phí phát sinh trong khâu mua + + Thuế ở khâu nhập khẩu (nếu có) = Đối với doanh nghiệp sản xuất Giá thành sản phẩm Chi phí sản suất chung Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp + + = Chi phí bán hàng: là toàn bộ chi phí cần thiết liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ trong kì bao gồm chi phí nhân công, chi phí bao bì, chi phí công cụ dụng cụ, chí phí dịch vụ mua ngoài, các khoản khấu hao tài sản cố định liên quan đến nghiệp vụ bán hàng. Chi phí quản lí doanh nghiệp là toàn bộ những khoản chi phí dùng cho công tác quản lí doanh nghiệp. 1.3 Thuế nộp ở khâu tiêu thụ Các loại thuế nộp ở khâu tiêu thụ bao gồm: - Thuế giá trị gia tăng(tính theo phương pháp trực tiếp) là loại thuế gián thu được tính trên khoản lợi nhuận tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ. - Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu đánh vào một số hàng hoá, dịch vụ nhất định(hàng hoá, dịch vụ đặc biệt). Các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì không phải nộp thuế giá trị gia tăng. - Thuế xuất khẩu là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam 2. Xác định lợi nhuận hoạt động tài chính Thuế hoạt động tài chính(nếu có) Chi phí hoạt động tài chính Lợi nhuận hoạt động tài chính Thu nhập hoạt động tài chính - - = Trong đó: Thu nhập hoạt động tài chính: Thu từ hoạt động liên doanh , góp vốn, góp cổ phần Thu từ hoạt động cho thuê tài sản Thu từ hoạt động mua bán chứng khoán Thu lãi tiền gửi Thu từ cho vay vốn Thu lãi bán ngoại tệ Chi phí hoạt động tài chính: Chi phí liên doanh liên kết Chi phí môi giới, chi phí thông tin mua bán chứng khoán Chi phí liên quan đến mua bán ngoại tệ Chi phí cho thuê tài sản Chi phí dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán Chi phí liên quan đến cho vay vốn Thuế hoạt động tài chính được tính như một khoản khấu trừ thu nhập hoạt động tài chính, tuy nhiên chỉ có một số hoạt động tài chính bị đánh thuế. 3. Xác định lợi nhuận hoạt động bất thường Lợi nhuận hoạt động bất thường Chi phí hoạt động bất thường Thu nhập hoạt động bất thường - = Trong đó Thu nhập hoạt động bất thường gồm: Thu về nhượng bán thanh lý tài sản, phế liệu Thu các khoản nợ khó đòi đã sử lý Nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho Phải thu khó đòi đã chích năm trước không sử dụng hết Thu về vi phạm hợp đồng Các khoản thu bất thường khác Chi phí hoạt động bất thường: Chi phí thanh lý nhượng bán TSCĐ Giá trị còn lại của TSCĐ nhượng bán, thanh lý Tiền phạt do vi phạm hợp đồng Các khoản chi phí bỏ sót những năm trước nay phát hiện ra Trị giá tài sản, vật tư thiếu hụt được ghi vào chi phí bất thường ......... iii. các biện pháp nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp 1. Sự cần thiết phải nâng cao lợi nhuận Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải thu được lợi nhuận. Lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy quan trọng, tác động đến tất cả mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp. Việc thực hiện các chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện đảm bảo tình hình tài chính vững chắc của doanh nghiệp, nó quyết định doanh nghiệp có tồn tại hay không. hiệu quả của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên ba khía cạnh: nộp ngân sách cho nhà nước, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Đối với người lao động nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp để tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quỹ khen thưởng phúc lợi, đảm bảo lương cho nhân viên, từ đó thực hiện tái sản xuất sức lao động. Mục đích của nhà sản xuất là lợi nhuận còn mục đích của người lao động là tiền lương. Khi người lao động được trả công thoả đáng, năng suất lao động sẽ tăng lên, tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận. Mức lương tối ưu hợp lí có tác dụng thúc đẩy khả năng làm việc của người lao động. Quỹ khen thưởng rồi rào cộng với một chế độ khen thưởng hợp lý sẽ khuyến khích người lao động. Lợi ích thoả đáng sẽ gắn kết người lao động với mục tiêu lợi ích của doanh nghiệp, làm người lao động làm việc tích cực hơn có trách nhiệm hơn và cống hiến hết mình cho lợi ích chung của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp lợi nhuận giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Điều đó được thể hiện ở việc phân phối lợi nhuận vào các quỹ một cách hợp lý như quỹ đầu tư và phát triển, quỹ dự phòng tài chính. Các quỹ này tăng lên tạo cho doanh nghiệp có khả năng tự chủ về tài chính. Bên cạnh đó lợi nhuận đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra thường xuyên liên tục, nâng cao khả năng cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Đối với nhà nước, có lợi nhuận sẽ đảm bảo nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách nhà nước, nâng cao phúc lợi xã hội để từ đó nhà nước có điều kiện để đầu tư, tạo sự phát triển cho nền kinh tế quốc dân thực hiện công bằng xã hội, xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, nâng cao dân trí, xây dựng xã hội văn minh giàu đẹp. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận. 2.1 Nhân tố khách quan. - Thị trường và sự cạnh tranh: thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp bởi vì doanh nghiệp cung cấp hàng hoá ra thị trường nhằm phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng để kiếm lời. Sự biến động cung và cầu trên thị trường ảnh hưởng tới khối lượng bán ra của doanh nghiệp. Nếu cung lớn hơn cầu giá cả hàng hoá sẽ bị đẩy xuống thấp để tăng sức cành trinh điều này ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại nếu cung nhỏ hơn cầu, chứng tỏ mặt hàng doanh nghiệp đang kinh doanh đang được người tiêu dùng ưa chuộng. Đây là lúc doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động bán ra của mình nhằm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Nó đến thị trường không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh của thị trường. Cạnh tranh lành mạnh có thể giúp doanh nghiệp phát triển nhưng cạnh tranh không lành mạnh có thể kiến doanh nghiệp gặp khó khăn nếu doanh nghiệp không đủ sức chống cự. Vì thế để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp của mình các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ đối thủ cạnh tranh của mình là ai, họ mạnh như thế nào và vị thế của doanh nghiệp mình đến đâu trên thị trường. - Giá cả hàng hoá tiêu thụ : theo quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu khi giá tăng thì mức tiêu thụ giảm còn giá giảm thì mức tiêu thụ tăng lên. Nếu các điều kiện khác không đổi thì gí giảm doanh thu sẽ bị giảm theo. Thực tế cho thấy giá là một đòn bẩy khích thích nhu cầu đối với người tiêu dùng doanh nghiệp bán hàng hoá với giá bán thấp hơn thị trường thì sẽ bán được nhiều hàng hoá hơn lợi nhuận trên từng đơn vị sản phẩm bán ra sẽ thấp nhưng với việc doanh nghiệp sẽ bán được nhiều hàng hơn thì tổng doanh thu của doanh nghiệp sẽ tăng và tổng lợi nhuận của doanh nghiệp cũng có thể sẽ tăng. Còn với mức giá bán cao cho doanh nghiệp một mức lợi nhuận trên đơn vị sản phẩm bán ra cao nhưng nếu số lượng hàng hoá bán ra không cao có thể làm tổng doanh thu của doanh nghiệp bị giảm, hàng hoá bán ra bị ít đi và làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp không được cao. Vì vậy khi xây dựng giá bán cho hàng hoá của doanh nghiệp các doanh nghiệp phải đảm bảo hai điều kiện: + Giá bán được thị trường chấp nhận + Giá bán phải bù đắp chi phí kinh doanh và mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Chính sách kinh tế của nhà nước: Nhà nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước định hướng, khuyến khích hay hạn chế hoạt động của các doanh nghiệp bằng các chính sách, luật lệ, thuế, các công cụ tài chính. Nhà nước tạo hành lang pháp lý đảm bảo hoạt động cho các doanh nghiệp. Nhà nước quản lý, điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp thông qua các chính sách về thuế của mình trong đó có thuế doanh thu đánh vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đánh vào hàng hoá. Nói chung thuế và các chính sách của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ví dụ như thuế nhập khẩu của một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ kiến cho giá cả của hàng hoá tăng lên điều đó có thể ảnh hưởng đén chính sách giá của doanh nghiệp và có thể ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. - Sự biến động của tiền tệ và tỉ giá hối đoái: Khi giá trị đồng
Tài liệu liên quan