Đất đai là tài sản quốc gia và quyền sử dụng đất là đối tượng của các giao dịch đất đai trong nền kinh tế thị trường thông qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp. Song do đặc thù về sở hữu đất đai ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, nên Nhà nước thực hiện quyền quản lý nhằm làm cho đất đai được sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích và đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên trong suốt quá trình quản lý đất đai, vấn đề giải quyết hài hoà giữa sự quản lý tập trung, thống nhất của chính quyền Trung ương với việc đảm bảo quyền tự chủ của chính quyền địa phương có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
Để đảm bảo lợi ích của Nhà nước cũng như lợi ích của các tổ chức, cá nhân sử dụng đất, pháp luật đã có những quy định rất cụ thể về quản lý và sử dụng đất. Việc phân cấp quản lý đất đai trong thời gian vừa qua đã thu được những thành tựu đáng kể. Mô hình quản lý tập trung, dân chủ tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, do dấu ấn nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tồn tại trong thời gian dài đã ảnh hưởng đến việc quản lý đất đai của Nhà nước ta. Điều này thể hiện qua việc Chính phủ ôm đồm quá nhiều lĩnh vực quản lý đất đai từ việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến việc xét duyệt giao đất, cho thuê đất. Do đó, dẫn đến tình trạng nhiều lúc Chính phủ mất quá nhiều thời gian giải quyết các công việc mang tính sự vụ mà chưa quan tâm thích đáng đến xây dựng, hoạch định các chiến lược, chính sách về đất đai. Trong khi đó, chính quyền địa phương lại chưa được giao thẩm quyền quản lý tương thích để có thể chủ động quản lý và sử dụng đất đai phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Vì vậy, việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai là rất cần thiết nhằm giúp các địa phương chủ động giao đất, cho thuê đất, nhanh chóng thực hiện các dự án đầu tư góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức sâu sắc thực tiễn cũng như tính cấp thiết của vấn đề, với mong muốn đóng góp một vài kiến nghị nhỏ cho việc phân quyền mạnh cho các cấp chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Các vấn đề pháp lý về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai” làm luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật.
57 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1562 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các vấn đề pháp lý về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Đất đai là tài sản quốc gia và quyền sử dụng đất là đối tượng của các giao dịch đất đai trong nền kinh tế thị trường thông qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp. Song do đặc thù về sở hữu đất đai ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, nên Nhà nước thực hiện quyền quản lý nhằm làm cho đất đai được sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích và đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên trong suốt quá trình quản lý đất đai, vấn đề giải quyết hài hoà giữa sự quản lý tập trung, thống nhất của chính quyền Trung ương với việc đảm bảo quyền tự chủ của chính quyền địa phương có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
Để đảm bảo lợi ích của Nhà nước cũng như lợi ích của các tổ chức, cá nhân sử dụng đất, pháp luật đã có những quy định rất cụ thể về quản lý và sử dụng đất. Việc phân cấp quản lý đất đai trong thời gian vừa qua đã thu được những thành tựu đáng kể. Mô hình quản lý tập trung, dân chủ tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, do dấu ấn nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tồn tại trong thời gian dài đã ảnh hưởng đến việc quản lý đất đai của Nhà nước ta. Điều này thể hiện qua việc Chính phủ ôm đồm quá nhiều lĩnh vực quản lý đất đai từ việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến việc xét duyệt giao đất, cho thuê đất. Do đó, dẫn đến tình trạng nhiều lúc Chính phủ mất quá nhiều thời gian giải quyết các công việc mang tính sự vụ mà chưa quan tâm thích đáng đến xây dựng, hoạch định các chiến lược, chính sách về đất đai. Trong khi đó, chính quyền địa phương lại chưa được giao thẩm quyền quản lý tương thích để có thể chủ động quản lý và sử dụng đất đai phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Vì vậy, việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai là rất cần thiết nhằm giúp các địa phương chủ động giao đất, cho thuê đất, nhanh chóng thực hiện các dự án đầu tư góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức sâu sắc thực tiễn cũng như tính cấp thiết của vấn đề, với mong muốn đóng góp một vài kiến nghị nhỏ cho việc phân quyền mạnh cho các cấp chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Các vấn đề pháp lý về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai” làm luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật.
Khoá luận được thực hiện với những mục đích nghiên cứu cơ bản sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận của việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai nhằm góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện lý luận về quản lý Nhà nước về đất đai trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
- Phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành về việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, những kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai nói chung và các quy định về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý đất đai nói riêng.
Trong khuôn khổ có hạn của một đề tài khoá luận tốt nghiệp đại học, khoá luận chỉ nghiên cứu vấn đề phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai từ năm 1993 (năm Nhà nước ban hành luật đất đai) đến nay.
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu, khoá luận tốt nghiệp đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin
- Quan điểm, lý luận của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật trong nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, khoá luận còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh, dẫn chiếu để luận giải, chứng minh cho các nhận xét, đánh giá.
Ngoài phần lời nói đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận được kết cấu như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai.
Chương II: Vấn đề phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai.
chương I
một số vấn đề lý luận về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai.
1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước về đất đai.
1.1.1. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về đất đai.
Bất cứ quốc gia nào trên thế giới, dù xác lập hình thức sở hữu tư nhân hay sở hữu toàn dân về đất đai thì Nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý đất đai. Sự quản lý của Nhà nước đối với đất đai mang tính tất yếu, khách quan, bởi vì:
Thứ nhất, xuất phát từ vị trí và vai trò quan trọng của đất đai. Đất đai không chỉ tác động trực tiếp đến lợi ích của mỗi con người mà còn có liên quan mật thiết đến lợi ích của cả quốc gia và toàn xã hội. Đất đai là tài sản vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất chính của một số ngành sản xuất như gạch, ngói, đồ gốm. Đất đai là bộ phận cấu thành nên lãnh thổ quốc gia. Đất đai là nơi con người sinh sống tập trung lâu dài, xây dựng nhà cửa, các công trình văn hoá, phân bố các ngành kinh tế quốc dân. Mặt khác, đất đai còn là cơ sở để phát triển các hệ sinh thái, là một yếu tố quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Mặc dù có vai trò vô cùng quan trọng như vậy nhưng đất đai chỉ có thể phát huy được lợi thế vốn có của mình nếu nhận được sự tác động tích cực của con người một cách thường xuyên. Ngược lại, nếu con người tác động vào đất đai một cách tuỳ tiện, tự phát sẽ làm giảm những giá trị to lớn của đất đai. Vì vậy, việc quản lý, sử dụng đất một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả thuộc về trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước có đủ điều kiện và khả năng để thống nhất quản lý đất đai trong phạm vi cả nước.
Thứ hai, xuất phát từ chức năng chủ yếu và thường xuyên của Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức chính trị quyền lực do xã hội thiết lập nên, thay mặt xã hội quản lý các hoạt động của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển theo một trật tự nhất định. Trong đó đất đai là tài sản chung của xã hội nên cần phải được Nhà nước quản lý. Nhà nước là một tổ chức chính trị - quyền lực, có quyền xây dựng,
ban hành và bảo đảm cho pháp luật đất đai được thực hiện một cách nghiêm minh nên trong các phương thức quản lý xã hội của con người thì phương thức quản lý do Nhà nước thực hiện là phương thức quản lý có hiệu quả nhất. Cho nên, tất yếu quản lý nhà nước phải được áp dụng trong lĩnh vực quản lý đất đai - Tài sản quan trọng và quý giá nhất của xã hội.
Thứ ba, xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước được hình thành và xác lập dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội mà đất đai là tư liệu sản xuất chính có giá trị nhất nên Nhà nước phải thực hiện quản lý đất đai. Theo đó, Nhà nước sẽ đại diện toàn dân tiến hành các hoạt động lập, xét duyệt, quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai phù hợp với các mục tiêu phát triển nền kinh tế xã hội, đáp ứng các yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ tư, quản lý Nhà nước về đất đai được xác lập dựa trên những yếu tố lịch sử. Sự phát triển của các triều đại phong kiến ở nước ta luôn khẳng định và đề cao quyền sở hữu tối cao ruộng đất của Nhà nước (mà đại diện là nhà vua), hạn chế hình thức sở hữu tư nhân về đất đai. Đất đai là đối tượng xâm lấn của các thế lực bên ngoài nên các cuộc chiến tranh cũng chỉ vì đất, vì mở rộng lãnh thổ. Bởi lẽ, đất đai ở nước ta luôn hàm chứa trong đó các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội. Nó phản ánh nguyện vọng và lợi ích của các giai tầng khác nhau trong xã hội. Tuy nhiên, trước tiên và trên hết, đất đai ở nước ta luôn được xác định là lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, là tài sản chung của xã hội và của cả cộng đồng. Trải qua quá trình đấu tranh gian khổ chống ngoại xâm giành độc lập, các thế hệ người Việt Nam đã giữ gìn và bảo vệ vốn đất như ngày nay. Do vậy, đất đai là thành quả của cách mạng, là chủ quyền, là lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc được khai phá và bảo vệ bằng chính mồ hôi xương máu của người Việt Nam nên phải thuộc sở hữu chung của toàn xã hội mà Nhà nước là người đại diện thực hiện việc thống nhất quản lý. Hơn nữa, mặc dù nước ta đã thực hiện đổi mới, đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường nhưng vẫn là một nước nông nghiệp có tốc độ phát triển dân số cao, đại bộ phận dân số là nông dân nhưng tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế giới. Vì vậy, để quản lý và bảo vệ chặt chẽ quỹ đất nông nghiệp vì lợi ích của các thế hệ người Việt Nam hiện tại và tương lai thì Nhà nước phải thực hiện việc quản lý đất đai.
Tóm lại, những điều phân tích trên đây là cơ sở để Nhà nước thực hiện thống nhất quyền quản lý của mình đối với đất đai. Và qua đó cũng khẳng định được sự cần thiết và tầm quan trọng của quản lý Nhà nước về đất đai. Nhà nước quản lý đất đai thống nhất tạo điều kiện phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và củng cố quốc phòng. Nhà nước phải có những biện pháp hợp lý để việc quản lý đất đai đi vào pháp chế, khai thác hết tiềm năng của đất, không ngừng nâng cao giá trị sử dụng của đất trong sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới.
1.1.2. Khái niệm chế độ quản lý Nhà nước về đất đai.
Kể từ khi Nhà nước thực hiện quản lý đất đai, các nhà nghiên cứu nói chung và giới luật học nói riêng cũng bắt đầu tìm hiểu khái niệm quản lý Nhà nước về đất đai. Theo giáo trình luật đất đai -Trường đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2001 thì khái niệm quản lý Nhà nước về đất đai được hiểu: “Quản lý Nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu Nhà nước về đất đai, đó là các hoạt động trong việc nắm chắc tình hình đất đai; trong việc phân phối và phân phối lại vốn đất theo quy hoạch; trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất”.
Hoạt động quản lý Nhà nước đối với đất đai do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện làm phát sinh quan hệ giữa các cơ quan này với người sử dụng đất. Nhà nước ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ đó vận động phù hợp với lợi ích và yêu cầu của Nhà nước. Vì vậy, chế độ quản lý Nhà nước đối với đất đai là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý Nhà nước đối với đất đai.
Các đặc trưng cơ bản của quản lý Nhà nước đối với đất đai:
- Hoạt động quản lý Nhà nước đối với đất đai ở nước ta được thực hiện trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu thực hiện quyền quản lý tối cao đối với toàn bộ lãnh thổ. Cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân là điều kiện quan trọng để Nhà nước thực hiện quyền quản lý thống nhất đối với đất đai. Nhà nước thực hiện trực tiếp quyền quản lý của mình bằng việc xác lập các chế độ pháp lý về quản lý và sử dụng đất của các cơ quan quyền lực Nhà nước là Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Các quyền này còn được thực hiện thông qua một hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước là Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, thông qua các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng đất theo những điều kiện và sự giám sát của Nhà nước. Hơn nữa, để thực hiện quyền quản lý của đại diện chủ sở hữu, Nhà nước còn thông qua việc xây dựng và ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, các tổ chức và cá nhân. Cùng với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Nhà nước còn tổ chức vận động, tuyên truyền pháp luật đất đai đến từng người dân để nâng cao nhận thức giúp họ xác định được quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
- Hoạt động quản lý Nhà nước đối với đất đai mang tính vĩ mô bao trùm, trong khi việc quản lý đất đai của người sử dụng đất chỉ mang tính chất kĩ thuật nghiệp vụ gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực và diện tích được giao. Nhà nước sẽ quản lý đất đai bằng chính sách, bằng pháp luật, không bị giới hạn bởi bất kỳ lý do gì.
1.2.3 Nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai.
Theo luật đất đai 2003, nội dung quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm:
1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính.
3. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất.
4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
6. Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
7. Thống kê, kiểm kê đất đai.
8. Quản lý tài chính về đất đai.
9. Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản.
10. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
11. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai.
12. Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong quản lý và sử dụng đất đai.
13. Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Nghiên cứu nội dung các quy định về quản lý Nhà nước đối với đất đai trong luật 2003, chúng ta thấy rằng:
Thứ nhất, so với các quy định về nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai của luật đất đai 1993 thì các quy định của luật đất đai 2003 không chỉ đề cập đến việc Nhà nước quản lý đất đai bằng các biện pháp hành chính mà còn quy định việc Nhà nước quản lý đất đai thông qua các biện pháp kinh tế như Nhà nước thực hiện quản lý tài chính về đất đai, quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất. Đây là những biện pháp quản lý đất đai rất quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy rằng, việc quản lý đất đai sẽ không có hiệu quả nếu Nhà nước không sử dụng các biện pháp quản lý này.
Thứ hai, một trong những nhược điểm trong công tác quản lý đất đai thời gian qua là việc buông lỏng công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính, nhiều địa phương chưa xác định rõ ranh giới đất đai, địa giới hành chính, hồ sơ, sổ sách địa chính không đầy đủ hoặc bị thất lạc nên không cập nhật kịp thời những biến động của việc sử dụng đất đai. Điều này đã gây khó khăn không nhỏ trong công tác quản lý đất đai. Nhà nước không nắm chắc được hiện trạng sử dụng đất, số liệu đất đai không thống nhất giữa các tài liệu. Khi có tranh chấp, khiếu kiện đất đai xảy ra, các cơ quan Nhà nước rơi vào thế bị động, lúng túng trong việc giải quyết Khắc phục nhược điểm này, luật đất đai 2003 xác định rõ một trong những nội dung của quản lý Nhà nước đối với đất đai là xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính
Thứ ba, nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai được quy định trong luật đất đai 2003 không chỉ thể hiện vai trò của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu mà còn thể hiện được vai trò của Nhà nước với tư cách là người thực hiện thống nhất quản lý đất đai.
Vai trò của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai thực hiện quyền định đoạt đất đai thông qua các hình thức sau:
+ Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
+ Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
+ Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
+ Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Vai trò của Nhà nước với tư cách là người đại diện thống nhất quản lý đất đai được luật đất đai 2003 xác định thông qua các nội dung như:
+ Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
+ Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính.
+ Thống kê, kiểm kê đất đai.
+ Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện và chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
+ Giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong quản lý và sử dụng đất đai.
Thứ tư, lần đầu tiên luật đất đai 2003 đưa việc quản lý các hoạt động dịch vụ công vào trong nội dung quản lý Nhà nước về đất đai. Việc đưa nội dung này vào hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai là rất cần thiết. Bởi lẽ:
- Về mặt lý luận, Nhà nước vừa là một tổ chức chính trị - quyền lực, vừa là một tổ chức được xã hội thiết lập nên đến thực hiện việc quản lý các hoạt động của xã hội, đồng thời giải quyết các nhu cầu của người dân. Trong một xã hội văn minh, người dân ngày càng có nhu cầu yêu cầu các cơ quan công quyền thực hiện cho mình các công việc mang tính chất hành chính như: thay đổi chỗ ở, xác nhận chỗ ở, xác nhận về họ tên, xác nhận về tài sản. Đây là công việc mà chỉ các cơ quan quản lý Nhà nước mới có thể giải quyết được. Do vậy, để giải quyết nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân và xã hội thì phải xác lập sự ra đời của dịch vụ công.
- Sử dụng đất đai để làm nhà ở, nơi sản xuất kinh doanh hoặc như là một tư liệu sản xuất đặc biệt để sản xuất là một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến lợi ích thiết thực không chỉ đối với người dân mà còn đối với các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong quá trình sử dụng đất này, các tổ chức và cá nhân đều cần được Nhà nước công nhận và bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp xung quanh việc chiếm hữu sử dụng đất (đây là các quyền về tài sản của người sử dụng đất) thông qua các thủ tục hành chính như giao đất, cho thuê đât, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để giải quyết các thủ tục này thì chỉ có các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (cơ quan quản lý Nhà nước đối với đất đai) mới có đủ tư cách thực hiện. Do vậy, đã xuất hiện vấn đề dịch vụ công trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Thời gian vừa qua, xuất phát từ nhiều nguyên nhân (chủ quan và khách quan) như cơ chế quản lý thay đổi làm cho đất đai ngày càng có giá, quan hệ đất đai chuyển từ trạng thái “tĩnh” sang trạng thái “động”. Nên nhu cầu của người dân đối với việc giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai tăng lên, trong khi năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai còn nhiều hạn chế, thủ tục hành chính về đất đai còn rắc rối, phiền hà. Điều này đã làm cho bộ máy của các cơ quan quản lý đất đai không đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của người dân. Để giải quyết tồn tại này, một số địa phương có sáng kiến thành lập các trung tâm dịch vụ công nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân trong lĩnh vực đất đai. Bên cạnh những thành công nhất định, hoạt động dịch vụ công về đất đai còn bộc lộ một số hạn chế cơ bản như: chưa có cơ chế, chính sách nhằm định hướng cho các hoạt động này thực hiện thống nhất, quy chế hoạt động của các tổ chức này không rõ ràng. Trong hoạt động dịch vụ công về đất đai đã phát sinh một số biểu hiện tiêu cực như: thương mại hoá, chú trọng vấn đề lợi nhuận và coi nhẹ vấn đề phục vụ người dân, chưa quan tâm đúng mức đến quyền lợi của khách hàng. Đó là chưa kể một số cán bộ lợi dụng việc thực hiện dịch vụ công tham nhũng, sách nhiễu người dân. Để khắc phục những tồn tại này, thì Nhà nước cần phải thực hiện việc quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
1.1.4. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước đối với đất đai.
Theo quy định của luật đất đai 2003, hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước đối với đất đai bao gồm:
Nhóm1: Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước.
- Quốc hội: Ban hành pháp luật đất đai, thực hiện quyền quyết định, giám sát tối cao đối với quản lý và sử dụng đất đai trong cả nước. Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong cả nước.
- Hội đồng nhân dân các cấp; Thực hiện quyền quyết định giám sát việc quản lý và sử dụng đất trong địa phương mình.
Nhóm 2: Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai có thẩm quyền chung.
- Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai tron