Bệnh mạn tính không lây đang tăng nhanh gồm các bệnh tim
mạch, đái tháo đường, ung thư, loãng xương và các bệnh liên quan sức khỏe tâm thần.
Các yếu tố liên quan của các bệnh không lây là lối sống, thói quen ăn uống, vận động.
Nghiên cứu này dùng thiết kế nghiên cứu phân tích (bệnh chứng) để xác định các yếu
tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường tại tỉnh Bình Dương, đại diện
khu vực Đông Nam Bộ.
22 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2173 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các yếu tố nguy cơ của các bệnh không lây (tăng huyết áp, đái tháo ðường týp 2) ở người lớn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA CÁC BỆNH KHÔNG LÂY
(TĂNG HUYẾT ÁP, ÐÁI THÁO ÐƯỜNG TÝP 2) Ở NGƯỜI LỚN
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh mạn tính không lây đang tăng nhanh gồm các bệnh tim
mạch, đái tháo đường, ung thư, loãng xương và các bệnh liên quan sức khỏe tâm thần.
Các yếu tố liên quan của các bệnh không lây là lối sống, thói quen ăn uống, vận động.
Nghiên cứu này dùng thiết kế nghiên cứu phân tích (bệnh chứng) để xác định các yếu
tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường tại tỉnh Bình Dương, đại diện
khu vực Đông Nam Bộ.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát mối liên quan của các yếu tố nguy cơ trên các
bệnh mạn tính không lây (tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2) ở người lớn (≥ 30 tuổi)
tại tỉnh Bình Dương năm 2006-2007.
Đối tượng và Phương pháp: Nghiên cứu bệnh chứng bắt cặp theo tuổi và
giới cho 704 trường hợp được chọn tại 3 bệnh viện điều trị tại tỉnh Bình Dương. Có
176 trường hợp tăng huyết áp và 176 ca chứng, 176 trường hợp đái tháo đường týp 2
và 176 ca chứng.
Kết quả: Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh THA các yếu tố có uống rượu
bia trong 12 tháng qua và tần suất uống rượu bia thường xuyên, tỷ lệ béo phì và béo
bụng, ăn mặn (được người khác cho là ăn mặn) là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy
cơ mắc bệnh. Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh ĐTĐ, các yếu tố uống rượu bia
hàng ngày, béo phì là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy độ mạnh mối liên quan giữa các hành vi uống
rượu bia, ăn mặn với nguy cơ bệnh tăng huyết áp, mối liên quan giữa hành vi uống
rượu bia với nguy cơ bệnh đái tháo đường týp 2, mối liên quan chỉ số nhân trắc BMI
với hai bệnh trên.
ABSTRACT
RISK FACTORS OF NON-COMMUNICABLE DISEASES
(HYPERTENSION, TYPE-2 DIABETES)
IN ADULT ( 30 YEARS OLD) IN BINH DUONG PROVINCE, IN 2006-
2007
Le Hoang Ninh, Đinh Van Khai, Nguyen Van Hoa, Nguyen Thi Hien, Phung
Đuc Nhat et al.,
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 95 - 101
Introduction: Non-communicable diseases emerging fastly including vardio-
vascular diseases, diabetes, cancer, osteomalacia and mental health related diseases.
Risk factors for these diseases are lifestyle, eating habit, physical activity. This study
is a case-control study aim to deteermine the strength of relationships between those
risk factors with hypertension, type 2 diabetes in Binh Duong province in East
Southern region.
Objective: determine the relationships between risk fators and non-
communicable diseases such as hypertension, type 2 diabetes in adult from and above
30 years old in Binh Duong province, in 2006-2007.
* Viện Vệ sinh Y tế công cộng, TP. Hồ Chí Minh **.BV. Đa khoa tỉnh
Bình Dương,
*** BV. Điều dưỡng và Phục hồi chức năng tỉnh Bình Dương, ****.BV.
Đa khoa huyện Thuận An
Materials and Methodology: age and gender matched case control study
recruited 704 individuals in three hospitals in Binh Duong province, including 176
hypertensives and controls, 176 type 2 diabetes cases and controls.
Results: In hypertensives and controls alcohol consumption and high frequent
of alcohol use, salty eating habit are risk factors, in type 2 diabetic cases and controls
daily alcohol consumption is risk factor. In both types of diseases, overweight is a
strong risk factor.
Conclusion: The study determines the strength of relationship of alcohol
consumption, salty eating habit and high risk of hypertension; alcohol consumption
and high risk of type 2 diabetes and the relationship of overweight with both
hypertension and type 2 diabetes.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh mạn tính không lây đang tăng nhanh trên toàn thế giới bao gồm các bệnh
tim mạch, đái tháo đường, ung thư, loãng xương và các bệnh liên quan sức khỏe tâm
thần. Các bệnh mạn tính đang đã được tính toán là đóng góp vào khoảng 60% của
56,5 triệu ca tử vong được báo cáo trên khắp thế giới và khoảng 46% gánh nặng toàn
cầu năm 2001(19). Tỷ lệ gánh nặng của các bệnh mạn tính được ước tính sẽ tăng lên
tới 67% vào năm 2020. Gần một nửa tổng số ca tử vong do các bệnh mạn tính là do
các bệnh tim mạch. Đái tháo đường cũng cho thấy một xu hướng đáng lo ngại, không
chỉ bởi các bệnh này ảnh hưởng một bộ phân lớn dân cư, mà còn vì chúng đã được
bắt đầu xuất hiện sớm hơn trong cuộc đời(1,(12).
Tổ chức Y tế Thế giới cũng phát hiện các yếu tố liên quan của các bệnh không
truyền nhiễm (bệnh tim, đột quị, tiểu đường, ung thư và bệnh hô hấp) đã được ghi
nhận như lối sống, thói quen ăn uống, vận động ở các nước phát triển cũng như các
nước đang phát triển trên thế giới(17,18).
Trên thế giới hiện nay, bệnh đái tháo đường týp 2 phát triển rất nhanh. Bệnh
có xu hướng tăng rõ rệt theo thời gian và sự tăng trưởng kinh tế, ở các nước công
nghiệp phát triển, đái tháo đường týp 2 chiếm tới 70-90% tổng số bệnh nhân bị đái
tháo đường. Tại châu Á, tuỳ thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế mà tỷ lệ mắc bệnh
khác nhau: Hàn quốc 2%, Malaysia 3%, Thái lan 3,5%, Philippinnes 4,2% ở người
trên 30 tuổi. Tại Singapore năm 1975 tỷ lệ mắc bệnh là 1,9% đến năm 1984 là 4,7%,
năm 1992 là 8,6% và đến năm 1998 tỷ lệ này lên tới 9%. Nguy cơ của các bệnh này
cũng là do lối sống, thói quen ăn uống và vận động(3,15,16).
Sự bùng nổ của các bệnh mãn tính không lây đang xảy ra ở các nước Nam Á
trong đó có Việt nam. Trong hơn thập kỷ gần đây, các bệnh không nhiễm trùng mãn
tính có chiều hướng gia tăng rõ rệt(5,6,7,9). Theo số liệu thống kê cuả Bộ Y tế, năm
2003, các bệnh này chiếm đến 64 % trong cấu hình bệnh tật tại Việt Nam. Xu thế gia
tăng này so với các nước trong khu vực, các nước có điều kiện kinh tế giống Việt
Nam, thì các bệnh không lây mãn tính tại Việt Nam có xu thế tăng rất nhanh(1,8). Sự
gia tăng này do tỷ lệ người lớn tuổi ngày một gia tăng trong dân số, tình trạng kinh tế
được cải thiện rõ rệt, một số hộ gia đình từ nghèo đói chuyển qua sung túc khá nhanh
nhưng nhưng hành vi văn hoá về mặt sức khoẻ chuyển biến không theo kịp với những
thay đổi do kinh tế mang lại, trở thành những rào cản, những yếu tố bất lợi về mặt sức
khoẻ một bộ phận dân cư. Do vậy, các bệnh mãn tính sẽ là vấn đề sức khoẻ cộng
đồng mà hệ thống y tế phải đối phó trong nhiều thập niên tới.
Có khá nhiều nghiên cứu được thiết kế theo kiểu điều tra cắt ngang, nhằm xác
định tầm vóc một số bệnh mãn tính không lây như huyết áp cao, tiểu đường(2,4,11,13).
Tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa tìm thấy nghiên cứu nào dùng thiết kế phân tích để xác
định các yếu tố nguy cơ mắc các bệnh mãn tính, bệnh huyết áp cao và tiểu đường tại
các tỉnh phía Nam. Ðây chính là nền tảng cho việc xác định vấn đề nghiên cứu này.
Kết quả có được từ công trình này sẽ là chứng cứ khoa học cho những chương trình
can thiệp về sau. Can thiệp trên những yếu tố nguy cơ này là cơ sở góp phần vào việc
hạ thấp, khống chế các bệnh mãn tính không lây, làm tăng chất lượng cuộc sống
người dân nói chung đặc biệt là những người cao tuổi tại Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu
Hút thuốc, uống rượu, thói quen ăn uống, thói quen vận động có là các yếu tố
nguy cơ của các bệnh không lây Tăng huyết áp, Đái tháo đường týp 2? Các Chỉ số
nhân trắc và Chỉ số sinh hóa có liên quan thế nào đến các bệnh không lây Tăng huyết
áp, Đái tháo đường týp 2?
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát vai trò cuả các yếu tố nguy cơ trên các bệnh mãn tính không lây (tăng
huyết áp, tiểu đường týp 2) ở người lớn (≥ 30 tuổi) tại tỉnh Bình Dương năm 2006.
Mục tiêu cụ thể
Xác định vai trò cuả các yếu tố sau đây trên nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp ở
người lớn (≥ 30 tuổi) tại tỉnh Bình Dương: hút thuốc, uống rượu, thói quen ăn uống,
thói quen vận động, các chỉ số nhân trắc
Xác định vai trò cuả các yếu tố sau đây trên nguy cơ mắc bệnh tiểu đường ở
người lớn (≥ 30 tuổi) tại tỉnh Bình Dương: hút thuốc, uống rượu, thói quen ăn uống,
thói quen vận động, các chỉ số nhân trắc
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện tại tỉnh Bình Dương từ 12/2005-
07/2007, 1 nghiên cứu bệnh - chứng với bệnh tăng huyết áp và 1 nghiên cứu bệnh
chứng với bệnh đái tháo đường týp 2.
Dân số nghiên cứu
Người lớn (≥ 30 tuổi) có hộ khẩu cư trú (cho cả nhóm bệnh và nhóm chứng)
đang điều trị và sinh sống tại tỉnh Bình Dương.
Cách chọn mẫu
Đây là một thiết kế nghiên cứu bệnh chứng. Trong đó:
Ca Bệnh: Các ca bệnh sẽ được chọn từ các đối tượng đã khám, chẩn đoán và
điều trị hoặc huyết áp, hoặc tiểu đường tại các cơ sở y tế của tỉnh Bình Dương (bao
gồm cả nội và ngoại trú).
Ca Chứng: Các trường hợp đến khám tổng quát tại các cơ sở y tế cuả tỉnh Bình
Dương, được đưa vào nhóm chứng khi được xác định là không có tiền sử tiểu đường,
huyết áp hiện đang dùng thuốc, hoặc không dùng thuốc.
Mặt khác, các ca bệnh và chứng sẽ được bắt cặp theo tuổi và giới tính.
Cỡ mẫu
Áp dụng công thức tính mẫu cho kiểm định tæ số chênh OR với độ chính xác
tương đối, OR ước tính =2. Với hai nhóm bệnh chứng ta có số lượng mẫu cần thiết là:
Ðối với bệnh tăng huyết áp: 176 ca bệnh và 176 ca chứng
Ðối với bệnh tiểu đường: 176 ca bệnh và 176 ca chứng.
Tiêu chí chọn mẫu
Tiêu chí chọn vào
Ca bệnh: Các đối tượng đã khám, chẩn đoán và điều trị hoặc huyết áp, hoặc
tiểu đường tại các cơ sở y tế của tỉnh Bình Dương (bao gồm cả nội và ngoại trú),
được phát hiện bệnh lần đầu trong năm 2006 và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Ca chứng: Các trường hợp đến khám tổng quát tại các cơ sở y tế của tỉnh Bình
Dương, được đưa vào nhóm chứng khi được xác định là không có tiền sử tiểu đường,
huyết áp hiện đang dùng thuốc, hoặc không dùng thuốc.
Công cụ thu thập
Bảng câu hỏi cấu trúc soạn sẵn, đo ghi huyết áp, đo ghi các chỉ số huyết thanh
về đường huyết, cholesterol và nồng độ lipid máu (bốn chỉ tiêu: cholesterol,
triglycerides, LDLP, HDLP), đo ghi nhân trắc
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu sẽ được nhập bằng chương trình Epidata 3.02 và sau đó được phân tích
bằng phần mềm Stata 8.0 và SPSS 10.0.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm dân số học của đối tượng nghiên cứu
Điều tra triển khai tại 3 đơn vị: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương, bệnh
viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng, bệnh viện huyện Thuận An (tỉnh Bình
Dương). Thời gian từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 3 năm 2007, có 704 phiếu được
đưa vào phân tích, đạt tỉ lệ là 100% tổng số phiếu.
Tuổi của đối tượng từ 30 đến 86 tuổi, trung bình là 51,78±11,97 tuổi. Nhóm
tuổi trên 45 chiếm tỉ lệ đa số là 75,57%. Nam chiếm tỉ lệ 42,05%, nữ chiếm tỉ lệ
57,95%. Về dân tộc, người Kinh chiếm đa số (97,2%), kế đến là người Hoa (2,7%),
các dân tộc khác chiếm tỉ lệ không đáng kể. Về trình độ học vấn: Đa số có trình độ
học vấn từ tiểu học trở xuống chiếm tỉ lệ 63,58%, tỉ lệ học vấn cấp 2-cấp 3 là 31,58%,
tỉ lệ đại học, sau đại học là 4,84%. Thời gian đi học trung bình của nhóm đối tượng
này là 8,0±5,1 năm. Thành phần dân tộc có khác so với nghiên cứu của tác giả Phạm
Hùng Lực điều tra năm 2002 trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long trong đó người
Kinh là 88,5%, người Khmer là 11% và người Hoa là 0,5%(10). Lý do là Phạm Hùng
Lực điều tra ở các khu vực vùng ven trong khi người Hoa lại sống tập trung nhiều ở
thị trấn.
Phân tích liên quan giữa các yếu tố liên quan rượu bia với bệnh THA
Bảng 1: Phân bố đặc điểm uống rượu bia với bệnh THA
Yếu tố tiếp xúc Tăng huyết áp OR P
Bệnh Chứng
(KTC 95%)
Có
60
(34,29)
46
(26,29)
Uống
rượu bia
trong 12
tháng qua Không
115
(65,71)
129
(73,71)
2,16
(1,05-
4,71)
0,02
Thường
xuyên
22
(12,57)
7 (4,0)
Tần
suất uống
rượu bia Không
thường xuyên
153
(87,43)
168
(96)
3,5
(1,36-
10,5)
0,004
So sánh giữa nhóm bệnh và nhóm chứng thì tỷ lệ uống rượu, bia trong 12
tháng qua của nhóm bệnh (34,29%) cao hơn nhóm chứng (26,29%), sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (p=0,02).
Những đối tượng ở nhóm cao huyết áp có tỉ lệ uống bia rượu thường xuyên
cao gấp 3,5 lần so với nhóm chứng (p=0,04).
Điều này cùng kết quả với các nghiên cứu: Trong nghiên cứu của tác giả Phạm
Hùng Lực tại đồng bằng sông Cửu Long năm 2002 kết quả có mối liên quan giữa thói
quen uống rượu và tình trạng THA, người có thói quen uống rượu có nguy cơ THA
gấp 1,2 lần so với nhóm không có thói quen uống rượu(10). Tác giả Vũ Bảo Ngọc
trong nghiên cứu ở quận 4, TP. Hồ Chí Minh năm 2004 cũng có phát hiện tương tự
với người có uống rượu bia có nguy cơ THA gấp 2,82 lần và người nghiện rượu,
uống thường xuyên hàng ngày có có nguy cơ THA gấp 4,87 lần so với người không
uống rượu bia(14).
Phân tích liên quan giữa yếu tố dinh dưỡng với bệnh THA
Bảng 2: Tần suất sử dụng các loại thức ăn trong một tuần với bệnh THA
Tăng huyết áp
Yếu tố tiếp xúc
Bệnh Chứng
OR
(KTC
95%)
P
Ăn
đồ chiên
<5
ngày/tuần
135
(77,14)
132
(75,43)
0,9
(0,5-
0,7
xào
>=
5ngày/tuần
40
(22,86)
43
(24,57)
1,5)
<5
ngày/tuần
76
(43,68)
59
(33,71) Ăn
đồ kho
ram mặn >=
5ngày/tuần
98
(56,32)
116
(66,29)
0,64
(0,39-
1,03)
0,055
Có
83
(47,43)
56
(32,0) Mọi
người cho
là ăn mặn
Không
92
(52,57)
119
(68,0)
1,9
(1,2-
3,06)
0,004
Kết quả nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa ăn nhiều đồ chiên xào
và đồ kho ram mặn với THA (p>0,05). Tuy nhiên, tỉ lệ người bị người khác cho là ăn
mặn hơn những người trong gia đình ở nhóm THA cao gấp 1,9 lần so với nhóm
chứng bắt cặp theo tuổi và giới với p=0,004. Điều này không khác với nghiên cứu
của tác giả Phạm Hùng Lực tại đồng bằng sông Cửu Long năm 2002. Tác giả này
không tìm thấy mối tương quan giữa thói quen ăn mặn và tình trạng THA(10).
Phân tích liên quan giữa yếu tố hoạt động thể lực với bệnh THA
Bảng 3: Phân bố đặc điểm hoạt động thể lực trong công việc với bệnh THA
Tăng huyết áp
Yếu tố tiếp xúc
Bệnh Chứng
OR
(KTC
95%)
P
Có
109
(62,29)
123
(70,29)
Hoạt
động thể
lực nhẹ
chung Không
66
(37,71)
52
(29,71)
0,65
(0,38-
1,09)
0,08
Có
118
(67,43)
123
(70,29)
Hoạt
động thể
lực nhẹ
trong công
việc
Không
57
(32,57)
52
(29,71)
0,86
(0,52-
1,4)
0,55
Tăng huyết áp
Yếu tố tiếp xúc
Bệnh Chứng
OR
(KTC
95%)
P
Có
160
(91,43)
172
(98,29)
Hoạt
động thể
lực nhẹ
trong giải
trí
Không
15
(8,57)
3
(1,71)
0,2
(0,03-
0,7)
0,005
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê về hoạt động giải trí nhẹ với THA
(p=0,005), nhóm THA có tỉ lệ giải trí chủ yếu là nằm ngồi thấp hơn đáng kể so với
nhóm chứng là 0,2 lần.
Đối với hoạt động thể lực nhẹ (chủ yếu là ngồi, đứng một chỗ) cả trong công
việc và giải trí thì nhóm Tăng huyết áp có tỉ lệ hoạt động nhẹ thấp hơn bằng 0,65 lần
so với nhóm chứng, chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê trong nghiên
cứu với p=0,08. Không tìm thấy mối liên quan trong hoạt động thể lực nhẹ trong công
việc với THA (p>0,05).
Phân tích liên quan giữa chỉ số nhân trắc với THA
Bảng 4: Phân bố tỉ lệ béo phì theo BMI và béo bụng với bệnh THA
Tăng huyết áp
Chỉ số nhân
trắc
Bệnh Chứng
OR
(KTC
95%)
p
>=23
87
(50)
42
(24,0)
Chỉ
số BMI
< 23
87
(50)
133
(76,0)
3,5
(2,04-6,28)
0,0001
Cao
72
(41,14)
47
(26,86)
Chỉ
số vòng
eo/vòng
mông
Bình
thường
103
(58,86)
128
(73,14)
2,08
(1,24-3,59)
0,003
Chỉ số khối cơ thể là một trong những cách khá chính xác để xác định tình
trạng cân nặng dư thừa. Tỉ lệ các đối tượng nghiên cứu có chỉ số BMI trên 23 trong
nhóm bệnh (50%) cao gấp 3,5 lần so với nhóm chứng bắt cặp theo tuổi và giới với
p=0,0001.
Tích tụ mỡ trên eo (béo bụng) là yếu tố nguy cơ mạnh hơn tích tụ mỡ ở dưới
eo (béo đùi). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ chỉ số vòng eo/vòng mông cao ở nhóm
THA cao gấp 2 lần nhóm chứng được bắt cặp theo tuổi và giới với p=0,003.
Phân tích liên quan giữa yếu tố uống rượu bia với bệnh ĐTĐ
Bảng 5: Phân bố đặc điểm các yếu tố liên quan uống rượu bia với bệnh ĐTĐ
Đái tháo đường p
Yếu tố tiếp xúc
Bệnh Chứng
OR
(KTC
95%)
Có
50
(28,25)
37
(20,9)
Uống
rượu bia
trong 12
tháng qua Không
127
(71,75)
140
(79,1)
2,18
(1,02-4,9)
0,02
Tần
suất uống
Thường
xuyên
17
(9,6)
4
(2,26)
7,5
(1,74-
0,0016
rượu bia
Không
thường xuyên
160
(90,4)
173
(97,74)
67,59)
Tỷ lệ uống rượu bia trong 12 tháng qua và tỷ tần suất uống rượu bia thường
xuyên ở nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng và sự liên quan có ý nghĩa thống kê
(p<0,05).
Phân tích liên quan giữa tình trạng béo phì với bệnh ĐTĐ
Bảng 6: Phân bố chỉ số BMI và tình trạng béo bụng với bệnh ĐTĐ
Đái tháo đường
Chỉ số nhân
trắc
Bệnh
Chứn
g
OR
(KTC 95%)
p
>=2
3
90 (50,85)
47
(26,55)
Ch
ỉ số BMI
< 23 87 (49,15)
130
(73,45)
2,86
(1,7-4,8)
0,0001
Đái tháo đường
Chỉ số nhân
trắc
Bệnh
Chứn
g
OR
(KTC 95%)
p
Cao
102(57,63
)
54
(30,51)
Ch
ỉ số vòng
eo/vòng
mông
Bìn
h thường
75 (42,37)
123
(69,49)
10,6(4,2
-33,9)
0,0000
1
Có sự khác biệt về tình trạng béo phì giữa nhóm bệnh và nhóm chứng. Nhóm
bệnh có tỉ lệ béo phì cao hơn hẳn nhóm chứng và sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê (p< 0,005). Có sự khác biệt về tình trạng béo bụng giữa nhóm bệnh ĐTĐ và nhóm
chứng. Nhóm bệnh có tỉ lệ béo bụng cao hơn hẳn nhóm chứng. (p<0,05).
KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho các kết quả sau:
Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh THA các yếu tố có uống rượu bia trong
12 tháng qua và tần suất uống rượu bia thường xuyên, tỷ lệ béo phì và béo bụng, ăn
mặn (được người khác cho là ăn mặn) là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc
bệnh.
Nhóm bệnh THA có uống rượu bia trong 12 tháng qua cao hơn nhóm chứng
(OR=2,16 KTC 95% = 1,05-4,71, p=0,02).
Nhóm bệnh THA có tần suất uống rượu bia thường xuyên cao hơn nhóm
chứng (OR=3,5 KTC 95%=1,36-10,5, p=0,004).
Nhóm bệnh THA có chỉ số BMI>= 23 cao hơn nhóm chứng (OR=3,5 KTC
95%=2,04-6,28, p=0,0001).
Nhóm bệnh THA có chỉ số vòng eo/mông cao hơn nhóm chứng (OR=2,08
KTC 95%=1,24-3,59, p=0,003).
Nhóm bệnh THA ăn mặn hơn so với nhóm chứng (p=0,004).
Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh ĐTĐ, các yếu tố uống rượu bia hàng
ngày, béo phì là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Nhóm bệnh ĐTĐ có tỉ lệ uống rượu bia trong 12 tháng qua cao hơn nhóm
chứng (OR=2,18 KTC 95%=1,02-4,9, p=0,02).
Nhóm bệnh ĐTĐ có tần suất uống rượu bia thường xuyên cao hơn nhóm
chứng (OR=7,5 KTC 95%=1,74-67,59, p=0,0016).
Nhóm bệnh ĐTĐ có bị béo phì (BMI>=23) cao hơn nhóm chứng (OR=2,86
KTC 95% =1,7-4,8, p= 0,0001).
Nhóm bệnh ĐTĐ có chỉ số vòng eo/vòng mông cao hơn so với nhóm chứng
(OR= 10,6 KTC 95%=4,2-33,9, p=0,00001).
KIẾN NGHỊ
Đề xuất về vấn đề truyền thông
Người bệnh cần được thông tin rõ ràng để thay đổi lối sống phù hợp nhằm
trách các tác hại của bệnh. Nhất là các biện pháp không dùng thuốc như chế độ
dinh dưỡng hợp lý trong bệnh ĐTĐ hoặc chế độ ăn giảm muối trong bệnh THA.
Truyền thông trên nhiều kênh đa dạng nhất là các kênh truyền thông đại chúng
để có thể tiếp cận người dân.
Đề xuất về vấn đề tổ chức cơ sở y tế
Cần có các chương trình quản lý bệnh nhân không lây thống nhất từ cấp trung
ương đến cơ sở và có định kỳ trao đổi kinh nghiệm giữa các cán bộ trong chương
trình để tăng cường năng lực hệ thống.
Kiến nghị cần soạn thảo các thông tin cốt lõi để tư vấn cho các trường hợp
bệnh không lây và cập nhật thông tin đến tận các tuyến y tế cơ sở. Mục tiêu để các
tuyến y tế có cùng một cách và cùng một thông điệp truyền thông đến người nghe.
Cần mở rộng mạng lưới bảo hiểm y tế đến tận người dân sao cho các đối
tượng bệnh mạn tính không lây được chăm sóc y tế tốt nhất.
Chương trình khám sức khỏe định kỳ cho người từ tuổi 30 trở lên sẽ góp phần
trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, trong đó có phát hiện sớm THA và ĐTĐ.
Giám sát định kỳ các yếu tố nguy cơ cần được đặt ra. Việc sàng