Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá các chỉ số xương hàm dưới trên hình ảnh toàn cảnh
như chỉ số lỗ cằm (MI), chỉ số hàm dưới toàn cảnh (PMI) và chỉ số vỏ xương hàm dưới (MCI), đặc biệt là tìm
kiếm mối liên hệ giữa các chỉ số này với tuổi tác và giới tính.
Phương pháp: Nghiên cứu gồm 389 ảnh toàn cảnh kĩ thuật số của các đối tượng từ 30 tuổi trở lên, không
mắc một trong các bệnh hay các yếu tố có ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa xương của cơ thể. Vẽ và đo đạc các
chỉ số trên ảnh toàn cảnh kĩ thuật số đã được chuẩn hóa trước khi chụp.
Kết quả: Giá trị trung bình của chỉ số MI ở người Việt là 3,18 (± 0,58), chỉ số PMI là 0,27 (± 0,06). Chỉ số
MI, PMI và MCI đều cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm 30-50 tuổi và nhóm trên 50 tuổi
(p<0,001). PMI và MCI giữa hai giới có sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,001). MI và PMI có giá trị càng giảm khi
phân loại vỏ xương hàm dưới, (MCI) càng chuyển dịch về loại C3. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa MI,
PMI ở phân loại C3 và phân loại C1, C2 (p<0,01).
Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy tuổi càng tăng thì khối lượng và chất lượng xương càng giảm, cụ thể là
vỏ xương càng mỏng và trông càng xốp.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chỉ số hình thái X-quang xương hàm dưới theo tuổi và giới tính nghiên cứu trên hình ảnh toàn cảnh kĩ thuật số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 305
CHỈ SỐ HÌNH THÁI X-QUANG XƯƠNG HÀM DƯỚI THEO TUỔI
VÀ GIỚI TÍNH NGHIÊN CỨU TRÊN HÌNH ẢNH TOÀN CẢNH KĨ THUẬT SỐ
Văn Hồng Phượng*, Lê Hồ Phương Trang*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá các chỉ số xương hàm dưới trên hình ảnh toàn cảnh
như chỉ số lỗ cằm (MI), chỉ số hàm dưới toàn cảnh (PMI) và chỉ số vỏ xương hàm dưới (MCI), đặc biệt là tìm
kiếm mối liên hệ giữa các chỉ số này với tuổi tác và giới tính.
Phương pháp: Nghiên cứu gồm 389 ảnh toàn cảnh kĩ thuật số của các đối tượng từ 30 tuổi trở lên, không
mắc một trong các bệnh hay các yếu tố có ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa xương của cơ thể. Vẽ và đo đạc các
chỉ số trên ảnh toàn cảnh kĩ thuật số đã được chuẩn hóa trước khi chụp.
Kết quả: Giá trị trung bình của chỉ số MI ở người Việt là 3,18 (± 0,58), chỉ số PMI là 0,27 (± 0,06). Chỉ số
MI, PMI và MCI đều cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm 30-50 tuổi và nhóm trên 50 tuổi
(p<0,001). PMI và MCI giữa hai giới có sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,001). MI và PMI có giá trị càng giảm khi
phân loại vỏ xương hàm dưới, (MCI) càng chuyển dịch về loại C3. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa MI,
PMI ở phân loại C3 và phân loại C1, C2 (p<0,01).
Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy tuổi càng tăng thì khối lượng và chất lượng xương càng giảm, cụ thể là
vỏ xương càng mỏng và trông càng xốp.
Từ khóa: chỉ số lỗ cằm, chỉ số hàm dưới toàn cảnh, chỉ số vỏ xương hàm dưới
ABSTRACT
MANDIBULAR RADIO-MORPHOMETRIC INDICES OF DIFFERENT AGE GROUPS AND GENDER -
DIGITAL PANORAMIC RADIOGRAPH STUDY
Van Hong Phuong, Le Ho Phuong Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 305 - 311
Objectives: The aim of this study was to evaluate the mandibular index using panoramic radiograph, such
as mental index (MI), panoramic mandibular index (PMI) and mandibular cortical index (MCI); specially, to
investigate their relationship with age, and gender.
Materials and Methods: Study was conducted on 389 healthy individuals aged from 30 years.
Standardized panoramic radiographs was obtained and the bone mass was measured using mental index (MI),
panoramic mandibular index (PMI) and mandibular cortical index (MCI).
Results: The mean MI of the selected population was 3.18 (± 0.58), the mean PMI was 0.27 (± 0.06). The
mean MI, PMI and MCI were statistically significant differences between 30-50 years old group and >50 years
old group (p<0.001 respectively). PMI and MCI between males and females were statistically significant
differences (p<0.001 respectively).
Conclusion: This study revealed that with the advancing age the bone mass decreased. In the future, it
requires more studies to confirm that dental panoramic radiographs can be used in clinical practice to assist
identifying individuals with low bone mass.
Key words: mental index, panoramic mandibular index, mandibular cortical index.
* Khoa Răng hàm Mặt ĐH Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên hệ: TS Lê Hồ Phương Trang, ĐT: 0907707633, Email: ptleho@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 306
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuổi con người càng tăng thì khối lượng và
chất lượng xương càng giảm. Từ thập niên thứ 3
của cuộc sống, xương thường bắt đầu giảm mật
độ và tăng tính xốp(13), nếu không được phát hiện
sớm và kiểm soát tốt, sẽ dẫn đến tình trạng loãng
xương, hậu quả là gãy xương. Hiện nay, loãng
xương đang được xem là “bệnh dịch âm thầm”,
lan rộng khắp thế giới, có xu hướng ngày càng
gia tăng, và trở thành gánh nặng cho y tế cộng
đồng. Do đó, tầm soát và sàng lọc nguy cơ loãng
xương trong giai đoạn sớm thật sự rất cần thiết
và hữu ích trong việc làm giảm tỉ lệ gãy xương
do loãng xương(11).
Hướng đến mục tiêu trên, nhiều nghiên cứu
đã đề nghị sử dụng các chỉ số hình thái X quang
xương hàm dưới, thể hiện trên phim toàn cảnh
nha khoa (panorex) như một công cụ hỗ trợ tầm
soát và phát hiện sớm nguy cơ loãng
xương(3,8,12,14) Thời gian gần đây, hàng loạt
nghiên cứu đã được tiến hành tại nhiều nước
khác nhau với mục đích xác định giá trị sinh lý
của các chỉ số hình thái X quang xương hàm
dưới cho từng quốc gia hay từng chủng tộc để
làm chuẩn cho việc so sánh và phát hiện sớm
nguy cơ loãng xương. Để xác định chỉ số xương
hàm dưới thể hiện trên phim toàn cảnh có bất
thường hay không, đầu tiên cần phải biết
khoảng giá trị bình thường đó trong dân số là
bao nhiêu và sự biến thiên của các giá trị này
theo tuổi tác và giới tính như thế nào.
Đề tài này được thực hiện nhằm đánh giá các
chỉ số xương hàm dưới trên phim toàn cảnh, đặc
biệt là tìm kiếm mối liên hệ giữa các chỉ số này
với tuổi tác và giới tính. Hi vọng đây sẽ là nghiên
cứu bước đầu cho các nghiên cứu sâu hơn về vai
trò của phim toàn cảnh trong đánh giá chất
lượng và khối lượng xương hàm dưới, nhằm hỗ
trợ cho việc phát hiện sớm nguy cơ loãng xương.
Các mục tiêu nghiên cứu được đặt ra như
sau: (1) xác định giá trị trung bình của chỉ số lỗ
cằm (MI), chỉ số hàm dưới toàn cảnh (PMI) ở
người Việt, (2) khảo sát sự phân bố các dạng vỏ
xương hàm dưới (MCI) ở người Việt, (3) đánh
giá mối liên hệ giữa các chỉ số MI, PMI và MCI
với tuổi tác và giới tính, (4) đánh giá mối liên hệ
của các dạng vỏ xương hàm dưới (MCI) với chỉ
số lỗ cằm (MI) và chỉ số hàm dưới toàn cảnh
(PMI).
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu gồm 389 ảnh toàn cảnh kĩ
thuật số của bệnh nhân đến chụp tại khoa Chẩn
đoán hình ảnh, Bệnh Viện Răng Hàm Mặt Trung
Ương Tp.HCM trong thời điểm từ tháng 01/2012
đến tháng 06/2012.
Kĩ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện không xác suất.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Phương tiện nghiên cứu
Máy chụp phim toàn cảnh kĩ thuật số Sirona,
phần mềm quản lý và đo đạc phim toàn cảnh
Sidexis.
Phương pháp thực hiện
Đo đạc các số liệu bằng phần mềm Sidexis
với độ phóng đại 300%.
Hình 1: Chỉ số lỗ cằm (MI) (a).
Hình 2: Chỉ số hàm dưới toàn cảnh (PMI) (a/b).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 307
Tóm tắt quá trình nghiên cứu
Đo chỉ số lỗ cằm (MI)
Chỉ số lỗ cằm là chiều cao của vỏ xương hàm
dưới ở vị trí lỗ cằm:
- Xác định lỗ cằm.
- Vẽ đường thẳng đi qua tâm của lỗ cằm và
vuông góc với tiếp tuyến bờ dưới xương hàm
dưới.
- Đo chiều cao vỏ xương tại vị trí này (a).
Chỉ số hàm dưới toàn cảnh (PMI)
Vẽ đường thẳng song song với tiếp tuyến bờ
dưới xương hàm dưới và đi qua bờ dưới lỗ cằm.
Đo khoảng cách từ bờ dưới lỗ cằm đến bờ
dưới xương hàm dưới (b).
PMI=a/b.
Chỉ số vỏ xương hàm dưới (MCI)
Hình dạng xương hàm dưới được đánh giá
từ vị trí lỗ cằm về phía xa, phân thành 3 loại:
- C1: Bờ trong vỏ xương bằng phẳng, sắc nét
ở cả 2 bên.
- C2: Bờ trong có khuyết hình bán nguyệt
(tiêu xương dạng khuyết lõm) hoặc tạo các lớp
vỏ bên trong (1-3 lớp) ở 1 hoặc cả 2 bên.
- C3: Bờ trong hình thành nhiều lớp và trông
xốp 1 cách rõ rệt.
Hình 2: Vị trí khảo sát bờ trong vỏ xương.
Hình 3: Chỉ số vỏ xương hàm dưới-Phân loại hình
dạng vỏ xương hàm dưới (MCI).
Xác định sự
khác biệt giữa
nam và nữ
Xác định sự
khác biệt giữa
hai nhóm tuổi
Đánh giá mối
tương quan
giữa các chỉ số
Chỉ số
lỗ cằm
(MI)
Chỉ số hàm dưới
toàn cảnh (PMI)
Chỉ số vỏ xương
hàm dưới (MCI)
ĐO ĐẠC CÁC
CHỈ SỐ
GHI NHẬN TÌNH
TRẠNG BỆNH LÝ
TOÀN THÂN
CHỤP PHIM
TOÀN CẢNH KĨ
THUẬT SỐ
Chọn đối
tượng
Chọn lựa
phim
VẼ LỖ CẰM VÀ
CÁC ĐƯỜNG TIẾP
TUYẾN
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 308
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Chỉ số lỗ cằm (MI)
Giá trị trung bình của chỉ số lỗ cằm (MI)
được tìm thấy trong nghiên cứu này là 3,18 ±
0,58. So với các nghiên cứu khác trên thế giới, giá
trị của MI trong nghiên cứu này có giá trị nhỏ
hơn vì tiêu chí chọn mẫu không giống nhau,
phương thức thực hiện cũng có vài điểm khác,
đặc biệt là sự khác nhau ở tính đặc thù của mỗi
chủng tộc.
Như nghiên cứu ở 312 phim toàn cảnh ở
các đối tượng người Anh từ 40-79 tuổi có MI
trung bình là 3,97(4). Nghiên cứu trên 1287
phim toàn cảnh của các đối tượng người Brazil
trên 17 tuổi, có MI trung bình là 3,42 ± 0,73(1).
Nghiên cứu trên 877 đối tượng người Ba Lan
từ 20 đến 95 tuổi cho thấy MI có giá trị là 3,21
± 0,76(7). Nghiên cứu trên 1863 đối tượng người
Thổ Nhĩ Kì (thuộc cả hai chủng tộc Á-Âu) thì
MI trung bình là 4,67 ± 0,41(5). Nhìn chung, có
thể thấy chỉ số lỗ cằm (MI) ở người châu Á có
giá trị thấp hơn ở người Châu Âu.
Tuy các nghiên cứu trên có thể đại diện cho
các nhóm chủng tộc ở các châu lục khác nhau,
nhưng không thể khẳng định MI trung bình ở
nhóm chủng tộc nào cao hơn nhóm chủng tộc
nào, vì cỡ mẫu của các nghiên cứu khác nhau và
tiêu chí chọn mẫu, độ tuổi, phân nhóm tuổi cũng
không giống nhau; nên cần có những nghiên
cứu thực hiện trên nhiều nhóm chủng tộc với
cùng cỡ mẫu, tiêu chí chọn mẫu để có thể có một
kết luận xác đáng hơn.
Chỉ số hàm dưới toàn cảnh (PMI)
Chỉ số hàm dưới toàn cảnh (PMI) có giá trị
trung bình là 0,27 ± 0,06. PMI được thể hiện
dưới dạng một tỉ số giữa chiều cao vỏ xương
hàm dưới và khoảng cách từ bờ dưới lỗ cằm
đến bờ dưới xương hàm dưới. Đây chính là nỗ
lực để bù lại sự méo mó cũng như để triệt tiêu
độ phóng đại vốn có trong phim toàn cảnh
nha khoa(2). Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu
đã xác định rằng khoảng cách từ lỗ cằm đến
bờ dưới xương hàm dưới tương đối ổn định
trong suốt cuộc đời, cho dù có sự tiêu xương ổ
răng bên trên lỗ cằm. Ở một xương hàm dưới
không bị tiêu ngót, khoảng cách bên dưới lỗ
cằm bằng khoảng 1/3 tổng chiều cao của
xương hàm dưới tại vùng đó(15). Cho nên, có
thể nói PMI là chỉ số có khả năng cung cấp
một thước đo độ dày vỏ xương hàm dưới và
có thể được sử dụng cho việc đánh giá sự mất
xương tại chỗ trong thực hành nha khoa(6).
PMI ở nghiên cứu này có giá trị trung bình
tương đồng với PMI bằng 0,275 trong nghiên
cứu của Rao và cộng sự (2011)(13), thực hiện trên
100 phim toàn cảnh của các đối tượng người Ấn
Độ từ 30 đến 60 tuổi. Sự đồng thuận này có thể
do các đối tượng nghiên cứu đều là người Châu
Á trên 30 tuổi. Nghiên cứu trên nhóm dân số
người Thổ Nhĩ Kì trên 20 tuổi của Gulsahi và
cộng sự (2008)(5) trên 1863 phim toàn cảnh kĩ
thuật số cho kết quả cao hơn không nhiều là 0,28.
Điều này có thể giải thích do sự khác biệt về
chủng tộc. Thổ Nhĩ Kì là nước thuộc cả hai châu
lục Á và Âu, ngoài ra, đối tượng trong nghiên
cứu của Gulsahi trẻ hơn trong nghiên cứu của
chúng tôi và nghiên cứu của Rao.
Benson và cộng sự (1991)(2) cho rằng PMI ở
nhóm chủng tộc da trắng là 0,318; trong khi ở
nhóm chủng tộc da đen lại có giá trị cao hơn là
0,35; còn ở nhóm người gốc Tây Ban Nha lại cho
giá trị thấp nhất là 0,299; tương đồng với nghiên
cứu của Ledgerton và cộng sự (1999) trên nhóm
đối tượng người Anh có PMI bằng 0,31.
Qua các kết quả được tìm thấy ở các nhóm
dân số khác nhau trên thế giới, có thể khẳng
định phần nào tầm ảnh hưởng của chủng tộc lên
sự hình thành, phát triển xương nói chung và ở
xương hàm dưới nói riêng.
Chỉ số vỏ xương hàm dưới (MCI)
Chỉ số vỏ xương hàm dưới (MCI) là chỉ số
thể hiện hình thái của vỏ xương hàm dưới, đây
là một biến định tính nên có thể tránh được
những sai lệch gây ra do đo lường trên phim
toàn cảnh. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm
thấy sự hiện diện của cả ba loại MCI, trong đó
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 309
chiếm nhiều nhất là loại C2 (bờ trong vỏ xương
hàm dưới có khuyết hình bán nguyệt, tiêu
xương dạng khuyết lõm hoặc tạo các lớp vỏ bên
trong từ 1-3 lớp ở một hoặc cả hai bên) với 65%,
còn lại là loại C1 (bờ trong vỏ xương bằng
phẳng, sắc nét ở cả hai bên) và loại C3 (bờ trong
vỏ xương hình thành nhiều lớp và trông xốp một
cách rõ rệt). Sự phân bố của các phân loại MCI
trong nghiên cứu này tương đồng với nhiều
nghiên cứu trên thế giới(5,9).
Mối liên hệ giữa các chỉ số MI, PMI và MCI
với tuổi tác và giới tính
Khi xét theo nhóm tuổi, chỉ số lỗ cằm (MI) và
chỉ số hàm dưới toàn cảnh (PMI) đều cho thấy sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê một cách rõ rệt
giữa hai nhóm 30-50 tuổi và trên 50 tuổi
(p<0,001). Trong đó, MI và PMI của các đối
tượng thuộc nhóm 30-50 tuổi đều lớn hơn các
đối tượng trên 50 tuổi (Bảng 1). Hay nói cách
khác, MI và PMI có giá trị tăng dần từ 30 đến 50
tuổi; sau 50 tuổi, hai giá trị này giảm rõ rệt.
Nghĩa là, khi tuổi càng tăng thì MI, PMI càng
giảm và ngược lại. Do đó, có thể kết luận rằng
tuổi càng tăng thì vỏ xương hàm dưới càng trở
nên mỏng hơn. Kết quả này đồng thuận với rất
nhiều nghiên cứu thực hiện trên nhiều nhóm
dân số khác nhau trên thế giới(2,5,13). Tuy nhiên,
nghiên cứu của Mudda và cộng sự (2010)(10) lại
cho kết quả ngược lại.
Bảng 1: Sự khác biệt chỉ số xương hàm dưới (MI,
PMI) giữa hai nhóm tuổi.
Chỉ số 30-50 tuổi
(n=211)
Trên 50 tuổi
(n=178)
p*
SD
SD
MI Bên
phải
3,34 0,55 3,00 0,62 <0,001
Bên trái 3,30 0,53 3,00 0,61 <0,001
PMI Bên
phải
0,29 0,05 0,25 0,06 <0,001
Bên trái 0,29 0,06 0,26 0,06 <0,001
*Kiểm định t cho hai mẫu độc lập.
MCI cũng cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê một cách rõ rệt giữa hai nhóm tuổi
(p<0,001). Trong đó, MCI loại C1 hiện diện chủ
yếu ở nhóm tuổi từ 30-50 (20,8%), còn ở nhóm
tuổi trên 50 thì MCI loại C1 lại chiếm tỉ lệ rất
thấp (5,1%). Ngược lại, MCI loại 3 lại ít thấy ở
nhóm tuổi 30-50 (5,7%), nhưng lại hiện diện
nhiều ở nhóm tuổi trên 50 (39,9%). Hay nói cách
khác, MCI loại C1 hiện diện đa phần ở nhóm
tuổi nhỏ (30-50 tuổi), MCI loại C3 hiện diện chủ
yếu ở nhóm tuổi trên 50, còn MCI loại C2 thì
phân bố trải dài ở tất cả các nhóm tuổi. Nhìn
chung, khi tuổi càng tăng thì MCI càng có xu
hướng dịch chuyển về phân loại C3 (vỏ xương
hàm dưới xốp một cách rõ rệt). Hay nói cách
khác, càng lớn tuổi thì vỏ xương hàm dưới càng
xốp. Kết quả này đồng thuận với nghiên cứu của
Ledgerton và cộng sự (1999), nghiên cứu của
Gulsahi cùng cộng sự (2008)(5).
Bảng 2: Sự khác biệt chỉ số MCI giữa hai nhóm tuổi.
Chỉ số MCI 30-50 tuổi
n (%)
Trên 50 tuổi
n (%)
C1 44 (20,8) 9 (5,1)
C2 155 (73,5) 98 (55)
C3 12 (5,7) 71 (39,9)
Toàn mẫu 211 (100) 178 (100)
Kiểm định χ2: p<0,001.
Khi phân tích sâu hơn mối liên hệ giữa chỉ
số vỏ xương hàm dưới (MCI) và tuổi tác,
chúng tôi nhận thấy độ tuổi trung bình của
MCI loại C1 khoảng 40 tuổi và không thấy sự
hiện diện của MCI loại C1 ở những đối tượng
trên 62 tuổi; MCI loại C2 có ở độ tuổi trung
bình khoảng 50 tuổi và ở các đối tượng trên 72
tuổi thì vỏ xương hàm dưới không có phân
loại C2; với MCI loại C3 thì độ tuổi trung bình
khoảng 60 tuổi và phân loại này hiện diện ở
tất cả các đối tượng trên 72 tuổi. Nhận định
này khá tương đồng với kết quả trong nghiên
cứu của Ledgerton (1999) và Zlataric (2002)(16).
Khi xét theo giới tính, chỉ số hàm dưới toàn
cảnh (PMI) ở nữ (0,28 ± 0,06) lớn hơn PMI ở nam
(0,26 ± 0,05), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p<0,001) ở cả hai phần hàm. Chiều cao vỏ xương
hàm dưới MI ở nam cao hơn ở nữ, trong khi đó
PMI ở nữ lại cao hơn ở nam có ý nghĩa thống kê.
Điều này có thể giải thích do khoảng cách từ bờ
dưới lỗ cằm đến bờ dưới xương hàm dưới ở nam
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 310
lớn hơn ở nữ, hay nói cách khác, xương hàm
dưới của nam có kích thước lớn hơn của nữ theo
chiều dọc. Nghiên cứu của Rao và cộng sự
(2011)(13) cũng cho thấy sự khác biệt của PMI giữa
nam và nữ, nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Đối với chỉ số lỗ cằm (MI), giá trị trung bình của
nam ở bên phải là 3,21 ± 0,56 và 3,18 ± 0,54 ở bên
trái, cao hơn ở nữ phía bên phải là 3,17 ± 0,64 và
3,16 ± 0,62 phía bên trái; tuy nhiên, không tìm
thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở chỉ số
này. Chỉ số vỏ xương hàm dưới (MCI) giữa nam
và nữ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,001). Trong đó, MCI loại C2 chiếm hơn 50%
ở cả hai giới, hiện diện ở nam nhiều hơn ở nữ;
tuy nhiên, MCI loại C1 ở nữ cao trội hơn nam và
nam có MCI loại C3 cao hơn nữ một chút.
Mối liên hệ giữa MI, PMI và MCI
Chỉ số lỗ cằm (MI) và chỉ số hàm dưới toàn
cảnh (PMI) tương quan có ý nghĩa thống kê
(p=0,000) với chỉ số vỏ xương hàm dưới (MCI).
Cụ thể là, MI và PMI có giá trị lớn nhất ở MCI
loại C1, giảm dần ở loại C2 và có giá trị nhỏ nhất
ở loại C3. Điều đáng chú ý là giá trị trung bình
của MI và PMI ở phân loại C3 nhỏ hơn rõ rệt so
với ở phân loại C1 và C2, sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (p=0,000). Kết quả này tương
đồng với nghiên cứu của Gulsahi và cộng sự
(2008)(5). Tuy nhiên, giá trị trung bình của MI và
PMI ở các phân loại vỏ xương hàm dưới C1, C2,
C3 trong nghiên cứu này cao hơn so với nghiên
cứu của Gulsahi (2008)(5), nhưng vẫn tuân theo
qui luật chung là khi MCI càng tiến về phân loại
C3 thì giá trị của MI và PMI càng giảm. Sự khác
biệt trên có thể lý giải do yếu tố chủng tộc, cũng
như các điểm không tương đồng trong cỡ mẫu,
tiêu chí chọn mẫu của hai nghiên cứu.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về các chỉ số hình thái X
quang xương hàm dưới người Việt theo tuổi tác
và giới tính, khảo sát trên 389 phim toàn cảnh kĩ
thuật số, bước đầu, chúng tôi rút ra được những
kết luận sau:
- Giá trị trung bình của chỉ số MI ở người
Việt là 3,18 ± 0,58; giá trị trung bình của chỉ số
PMI ở người Việt là 0,27 ± 0,06.
- MCI loại C1 hiện diện chủ yếu ở nữ 30-50
tuổi và ít thấy ở nam trên 50 tuổi; MCI loại C2
hiện diện nhiều nhất, phân bố ở tất cả các nhóm;
MCI loại C3 được thấy nhiều nhất ở nữ trên 50
tuổi và ít nhất ở nữ 30-50 tuổi.
- MI trung bình ở nam cao hơn ở nữ không
có ý nghĩa thống kê, nhưng có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa nhóm 30-50 tuổi và nhóm
trên 50 tuổi.
- Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
nam và nữ, giữa nhóm 30-50 tuổi và nhóm trên
50 tuổi về chỉ số hàm dưới toàn cảnh (PMI) và
chỉ số vỏ xương hàm dưới (MCI).
- MI và PMI có giá trị càng giảm khi phân
loại vỏ xương hàm dưới (MCI) càng chuyển dịch
về loại C3, đồng thời có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa MI, PMI ở phân loại C3 và phân
loại C1, C2.
Nhìn chung khi tuổi càng tăng thì vỏ xương
hàm dưới càng mỏng và xốp, nhất là ở phụ nữ
sau 50 tuổi. Các chỉ số xương hàm dưới định tính
và định lượng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
nên có thể thay thế cho nhau trong việc đánh giá
khối lượng và chất lượng xương hàm dưới.
Nghiên cứu về các chỉ số hình thái X quang
xương hàm dưới theo tuổi tác và giới tính được
thực hiện lần đầu trên người Việt Nam. Mặc dù
còn nhiều hạn chế, nhưng chúng tôi hi vọng kết
quả của nghiên cứu có thể là những số liệu sơ
khởi cho việc đánh giá khối lượng và chất lượng
xương hàm dưới. Nghiên cứu này cũng sẽ mở
đường cho những nghiên cứu sâu hơn sau này
hướng đến việc tầm soát nguy cơ loãng xương
nói riêng và tạo sự kết nối giữa các liên chuyên
khoa trong ngành Y tế nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alonso MB, Cortes ARG, Camargo AJ (2011). Assessment of
panoramic radiomorphometric indices of the mandible in a
Brazilian population. ISRN Rheumatology, 1-5.
2. Benson BW (1991). Variations in adult cortical bone mass as
measured by a panoramic mandibular index. Oral Surg Oral
Med Oral Pathol, 71(3): 349-356.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 311
3. Devlin H, Horner K (2002). Mandibular radiomorphometric
indices in the diagnosis of reduced skeletal bone mineral
density. Osteoporos Int, 13(5): 373-378.
4. Dutra V (2005). Radiomorphometric indices and their re