Khi chế độ phong kiến đã phát triển đến đỉnh cao và dần trở lên lạc hậu, không những không còn phù hợp với sự tiến triển của kinh tế xã hội mà còn trở lên kìm hãm và ngăn chặn sự phát triển của lực lượng sản xuất thì tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi một chế độ xã hội khác tiến bộ hơn để phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội, phù hợp với quy luật của lịch sử - đó là chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thế kỉ XVIII là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử thời cận đại. Trừ Anh và Hà Lan ra thì chế độ phong kiến còn thống trị ở hầu hết các nước ở Châu Âu. Nhưng trong lòng chế đọ phong kiến thối nát đó đã chứa đựng những mầm mống báo hiệu sự sụp đổ của nền quân chủ đó. Nước Pháp là một nước có mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ đã biểu hiện cao độ, có chứa những cuộc đấu tranh quyết liệt, mạnh mẽ không thể tránh khỏi một cuộc cách mạng.
Trong thời gian 200 năm tiến triển của chế độ chuyên chế ở Pháp, chính quyền quân chủ đã được mở rộng và củng cố, để đạt đến đỉnh phát triển rạng rỡ nhất thời Lu – i XIV – thời “vua mặt trời” (1643 – 1715). Nhưng ngay từ những năm cuối cùng của triều vua này thì chế đọ chuyên ché đã bắt đầu suy vong. Nguyên nhân của sự suy vong này tất nhiên không phải do những người kế vị Lu – i XIV: Lu – i XV (1715 – 1774) – Lu – i XVI (1774 – 1792) kém cỏi hơn, mà đó là sự thay thế một chế độ xã hội lạc hậu bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn
24 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 7473 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cách mạng tư sản pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cách mạng tư sản pháp
LỜI MỞ ĐẦU
Khi chế độ phong kiến đã phát triển đến đỉnh cao và dần trở lên lạc hậu, không những không còn phù hợp với sự tiến triển của kinh tế xã hội mà còn trở lên kìm hãm và ngăn chặn sự phát triển của lực lượng sản xuất thì tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi một chế độ xã hội khác tiến bộ hơn để phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội, phù hợp với quy luật của lịch sử - đó là chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thế kỉ XVIII là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử thời cận đại. Trừ Anh và Hà Lan ra thì chế độ phong kiến còn thống trị ở hầu hết các nước ở Châu Âu. Nhưng trong lòng chế đọ phong kiến thối nát đó đã chứa đựng những mầm mống báo hiệu sự sụp đổ của nền quân chủ đó. Nước Pháp là một nước có mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ đã biểu hiện cao độ, có chứa những cuộc đấu tranh quyết liệt, mạnh mẽ không thể tránh khỏi một cuộc cách mạng.
Trong thời gian 200 năm tiến triển của chế độ chuyên chế ở Pháp, chính quyền quân chủ đã được mở rộng và củng cố, để đạt đến đỉnh phát triển rạng rỡ nhất thời Lu – i XIV – thời “vua mặt trời” (1643 – 1715). Nhưng ngay từ những năm cuối cùng của triều vua này thì chế đọ chuyên ché đã bắt đầu suy vong. Nguyên nhân của sự suy vong này tất nhiên không phải do những người kế vị Lu – i XIV: Lu – i XV (1715 – 1774) – Lu – i XVI (1774 – 1792) kém cỏi hơn, mà đó là sự thay thế một chế độ xã hội lạc hậu bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn.
I. Tình hình nước Pháp trước cách mạng
Chủ nghĩa tư bản đã phát sinh ở Pháp vào cuối thế kỉ XVI. Chậm chạp và từng bước tiến lên trong lòng xã hội phong kiến, nó dã phát triển đầy đủ và chin muồi vào những năm cuối thế kỉ XVIII. Những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và trật tự phong kiến thống trị đã bước vào một giai đoạn ngày càng gay gắt. những mâu thuẫn ấy bùng nổ trên mọi mặt.
1. Chế độ chính trị ở Pháp trước cách mạng
Trước cách mạng, nước Pháp là một nước quân chủ chuyên chế phong kiến. Nhà vua nắm mọi quyền hành, hầu như không chịu sự kiểm soát nào. Vua có quyền quyết định mọi công việc đối nội, đối ngoại, bổ nhiệm và cách chức các bộ trưởng và nhân viên nhà nước, ban hành và huỷ bỏ các đạo luật trừng phạt và ân xá…
Công cụ thống trị của nhà nước phong kiến gồm có quân đội, cảnh sát và nhà thờ.
Tổ chức hành chính trong nước cũng tập trung vào tay vua. Vua có quyền cử quan lại thân tín nhất về làm tổng quản địa phương. Hầu hết các chức vụ trong bộ máy nhà nước đều được đem bán. Cách tuyển chọn như vậy làm cho nhà nuứơc trở thành gánh nặng cho nhân dân vì tính quan liêu, tham nhũng và bất công của nó, khiến cho có người phai kêu lên rằng “triều đình là mồ chôn của quốc gia”
2. Tình trạng nông nghiệp và quan hệ ruộng đất
Vào thế kỉ XVIII mặc dù Pháp là một trong những nước tiên tiến ở Châu Âu, chỉ kém Anh về mặt kinh tế, nhưng 90% dân số Pháp là nông dân, cơ sở kinh tế của Pháp là nông nghiệp thì lạc hậu, năng suất thì lại bị thấp kém. Tình trạng bất lợi của nông nghiệp Pháp trước cách mạng là một trong những hậu quả của sự tồn tại dai dẳng của chế độ phong kiến, ăn sâu, bám rễ vào nông thôn Pháp và ngày càng trở lên lỗi thời, phản động.
Ruộng đất ở Pháp trên danh nghĩa thuộc quền sở hữu của vua. Nhà vua lấy ruộng đất đó phong cấp cho quần thần. Những đất đai đó được sử dụng dưới hai hình thức. Thường thường chúa phong kiến giữ lấy một phần nhỏ làm lãnh địa, rồi phát canh cho nông dân để thu tô. Phần còn lại thì được canh tác theo chế độ vĩnh điền nông nô. Nông dân lao động trên mảnh đất đó nhưng không có quyền sở hữu, phải nạp cho lãnh chúa một thứ thuế “xăng” nhất định.
Tóm lại, trong nông nghiệp Pháp cuối thế kỉ XVIII, những tập quán phong liến trung cổ cũ còn thống trị dưới hình thức thô bạo và dã man nhất; chúa đất hết sức ngoan cố bám lấy tập quán cổ lỗ của cha ông trong quan hệ đối với nông dân. Lãnh chúa dựa vào quyền hành phong kiến cũ để ngày càng bóc lột họ tới tân xương tuỷ.
Chính sự bóc lột không thương tiếc đó của lãnh chúa đã làm cho những sáng kiến của người nông dân bị vùi lấp, những hào hứng tăng gia sản xuất bị tiêu tan.
Sự suy vi của nền nông nghiệp Pháp ngày càng lộ rõ hơn; giá nông phẩm bị giảm sút. Hởu quả là thu nhập của địa chủ bị giảm, thúc đẩy họ tìm nguồn thu nhập mới. Nhưng thay vì cải tiến nền nông nghiệp đã quá lạc hậu thì da số các địa chủ lại nhờ đến phương sách mà họ cho là đơn giản nhất, thông dụng nhất đó là bóc lột người nông dân. Họ tìm mọi cách để chiếm đoạt ruộng đất, tăng thuế. Kết quả là trước cách mạng, nền kinh tế nông nghiệp ngày càng suy sụp, nông dân phá sản phải đi lang thang để kiếm ăn, nạn đói diễn ra liên tiếp. Do dó, giải phóng khỏi ách phong kiến là một yêu cầu cấp thiết của nhân dân Pháp lúc đó và giải quyết vấn đề ruộng đất đã trở thành vấn đề cơ bản của cách mạng.
3. Sự phát triển công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và những trở lực của nó
Cuối thế kỉ XVIII, nền công thương nghiệp Pháp trên đà phát triển mặc dầu còn thua kém Anh. Các công trường thủ công tư bản chủ nghĩađược phổ biến rộng rãi.Nhiều ngành công nghiệp cũ được mở rông trên quy mô cũ, nhiều ngành công nghiệp mới được ra đời và nhanh chóng được mở rộng phá triển. Sản lượng công nghiệp dã đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sự phát triển công thương nghiệp đã làm cho bộ mặt của các thành phố thời trung cổ thay đổi hẳn. Thủ đô Paris với 50 vạn dân, là một thành phố nổi tiếng thế giới về sản xuất mĩ phẩm.
Trong khi đó, chế độ phong kiến áp dụng những quy chế khắt khe như thuế nặng, sự kiểm soát chặt chẽ, sản xuất theo khuân mẫu bắt buộc, số lượng sản phẩm và nhân công bị hạn chế…đã ngăn cản sự phát triển công thương nghiệp. Hình thức tổ chức sản xuất phổ biến là các công trường thủ công phân tán. Công trường thủ công tập trung tơng đối ít nhưng có một ý nghĩa kinh tế đáng kể. Ngoài những công trường của nhà nước, nhiều công ti đứng ra kinh doanh, tập trung công nhân và bước đầu sử dụng máy móc.
Nhìn chung, cuối thế kỉ XVIII, các ngành công thương nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, yếu tố tư bản chủ nghĩa ngày càng rõ rệt. Nhưng chế dộ phong kiến đã cản trở sự phát triển đó. Cho nên xoá bỏ sợi dây ràng buộc của phong kiến đối với nền công thương nghiệp đã thành một yêu cầu khách quan, tất yếu của lịch sử.
4. Tình hình xã hội Pháp
Trong xã hội Pháp lúc bấy giờ tồn tại ba đẳng cấp tăng lữ, quý tộc và đẳng cấp thứ ba. Quý tộc và tăng lữ chỉ chiếm 1% dân số nhưng mọi đặc quyền đặc lợi lại rơi vào tay số ít người này. Trong khi đó đảng cấp thứ ba chiếm tới 99% dân số nhưng bị tước đoạt mọi quyền chính trị, không được ham gia các cơ quan nhà nước, bị phụ thuộc và phải phục vụ cho các đẳng cấp có đặc quyền.
Cùng với sự phát triển của công thương nghiệp, đến cuối thế kỉ XVIII, giai cấp tư sản đã trở thành một giai cấp có thế lược về kinh tế. Bọn quý tộc thiếu tiền để ăn chơi, do vậy phải vay nợ của các nhà tư sản này.triều đình trở thành con nợ của họ. Giai cấp tư sản vừa giàu có lại vừa có học. Họ học hỏi để phục vụ cho việc kinh doanh, chống lại nhà thờ và đòi hỏi quyền lợi chính trị. Họ muốn tham gia chính quyền, muốn xoá bỏ những luật lệ ngặt nghèo của nhà nước quân chủ chuyên ché, muốn mở đường cho công thương nghiệp phát triển. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân. Cho nên, họ trở thành kẻ đại diện cho quyền lợi của đảng cấp thứ ba. Và vì địa vị kinh tế, là kẻ đại diện cho phương thức sản xuất mới nên họ sẽ trở thành người lãnh đạo cuộc các mạng tư sản.
Giai cấp tư sản gồm nhiều tầng lớp khác nhau. Đại tư sản nắm giữ trong tay rất nhiều của cải, họ cũng có quan hệ gần gũi với chế độ quân chủ chuyên chế tuy rằng nó chưa nằm quyền chính trị. Yêu cầu của họ là tiến hành cải cách, mở rộng chính quyền cho họ tham gia. Đông đảo nhất là tầng lớp tư sản công thương nghiệp, hàng ngày gặp sự trói buộc của nhà nước chuyên chế đối với công việc kinh doanh nên có yêu cầu cách mạng rõ rệt hơn. những người tiểu thương, tiểu chủ, tiểu tư sản nói chung , rất bất mãn với chế độ đương thười sẽ trở thành lực lượng cách mạng ích cực.
Nông dân là giai cấp đông đảo nhất, cùng khổ nhát trong đẳng cấp thứ ba cũng như trong xã hội. Họ chịu ba tầng áp bức của chế độ phong kiến: lãnh chúa, nhà nước và nhà thờ. Chính vì thế họ căm thù chế độ phong kiến, nhiều lần nổi dậy đấu tranh và trở thành động lực chủ yếu của cách mạng tư sản.
Tầng lớp thấp nhất ở các thành phố trong đẳng cấp thứ ba là bình dân thành thị bao gồm công nhân, thợ thủ công, những người bán hàng vặt, người hát rong, những người thất nghiệp hoặc sống bằng những nghề tạm bợ… Họ sống chenchúc, tạm bợ và chịu sự miệt thị về nghèo đói và không có quyền chính trị.
Họ đã từng đấu tranh nhiều lần chống chế độ phong kiến, mong mnỏi một cuộc sống khấm khá hơn nhưng cuối cùng, đều bị đàn áp. Trong giai đoạn nàycông nhân chưa hình thành một giai cấp, ý thức giác ngộ về giai cấp còn thấp kém, nên họ thường đi theo giai cấp tư sản. Họ chính là lực lượng kiên quyết nhất trong cuộc đấu tranh chống phong kiến.
Như vậy do địa vị kinh tế và chính trị quy định, xã hội Pháp hồi cuối thế kỉ XVIII đã chia thành hai trân tuyến rõ rệt: Trận tuyến phong kiến bao gồm vua, tăng lữ và quý tộc; Trận tuyến chống phong kiến gồm các tằng lớp trong dẳng cấp thứ ba do giai cấp tư sản lãnh đạo.
5. Trào lưu tư tưởng ánh sáng ở Pháp
Từ giữa hế kỉ XVII và nhất là trong nhiều năm của thế kỉ XVIII, các nhà triết học, sử học, văn học,những ngưòi có tư tưởng tiến bộ đã liên tục tấn công vào thành trì quân chủ chuyên chế bằng những học thuyết mới tiến bộ và cách mạng. Lịch sử gọi đó là thế kỉ “ánh sáng”, thế kỉ chuẩn bị về tư tưởng cho một cuộc cách mạng tư sản sắp bùng nổ.
Sác Luy Môngtexkiơ (1689 – 1755). Thông quanhững tác phẩm ông thể hiện quan điểm chính trị, ông phê phán chế độ phong kiến và nhà nước quân chủ cực đoan. Ông chủ trương xây dựng một nhà nước theo kiểu tam quyền phân lập giống như ở Anh. Tuy nhiên quan điểm của Môngtexkiơ không phải là tiến hành cách mạng để lật đổ chế độ cũ mà chỉ là cải cách, tổ chứcchính quyền cho phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng với giai cấp tư sản. Nhưng trong thời kì chế độ chuyên chế đang thống trị dưới hình thức tàn bạo nhất ở Pháp thì tư tưởng của ông về đấu tranh có ý nghĩa tiến bộ rất lớn và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới phong trào cách mạng sau này.
Vôn te (1694 – 1778): quan điểm của ông là phê phán phong kiến và giáo hội nhưng khác với Sác Luy Môngtexkiơ. Ông muốn thực hiện cải cách trong khuôn khổ của chế độ quân chủ sáng suốt, nắm quyền là những người giàu có. Tuy rằng có những nhược điểm do quan điểm giai cấp hạn chế, Vônte vẫn đóng một vai trò cực kì quan trọng trong trào lưu triết học Ánh sáng.
Giăng Giắc Ruxô (1712 – 1778) là đại biểu lỗi lạc nhất cuả hệ tư tưởng tiên tiến thế kỉ XVIII. Ông cho rằng nguồn gốc của sự khổ cực trong xã hội là do sự chênh lệch quá lớn về tài sản và nêu lên mọi người đều phải bình đẳng. Ông tấn công vào quyền tư hữu, đề xướng xây dựng một xã hội tương lai. Tuy vậy Ruxô không chủ trương tiêu diệt toàn bộ quyền tư hữu vì theo ông việc đó không thể thực hiện được.
Nhóm Bách khoa toàn thư tập hợp những nhà triết học, sử học, khoa học…là đại biểu của những tư tưởng tiên tiến nhất. Khi đó họ tấn công vào thành trì của chế độ phong kiến và giáo hội, mặc dầu trong nội bộ có những chính kiến khác nhau, nhưng vì cùng chung kẻ thù nên họ đoàn kết lại dưới sự chỉ đạo của nhà triết học duy vật Đơ ni Điđơrô (1713 – 1784). Họ chủ trương tự do về kinh tế, bảo vệ quyền tư hữu, ôn hoà về chính trị xã hội.
Tất cả những vấn đề quan trọng về đạo đức, chính trị và triết học, kĩ thuật và nông nghiệp đều được giải thích và phân tích theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật.
Như vậy, rõ ràng là nhóm Bách khoa đã góp phần truyền bá tư tưởng duy vật chủ nghĩa, làm cho quan điểm đó giành được những thắng lợi rực rỡ và trở thành một khuynh hướng chiếm ưu thế trong triết học Pháp hồi đó.
Các nhà tư tưởng Pháp, mặc dù có những quan điểm khác nhau, phản ánh quyền lợi của các giai cấp khác nhau, nhưng trong thời ki khủng hoảng của chế độ phong kiến họ đều chĩa mũi nhọn vào chính quyền và đòi hỏi thay thế bằng một chế độ xã hội mới.
6. Chế độ phong kiến ở Pháp khủng hoảng
Cuối thế kỉ XVIII chế độ phong kiến ở Pháp đã lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Trong khi đó, căm thù chế độ phong kiến và đời sống ngày càng cùng cực, quần chúng nhân dân đã nổi dậy khắp nơi. Đồng thời, công nhân ở Paris và các thành phố khác cũng nổi dậy đấu tranh giành quyền lợi, hô các khẩu hiệu: “Giết chết bọn quý tộc!”, “Giết chết bon nhà giàu!”, “Giết chết bọn cố đạo”. Chính quyền đã cử quân đội đến đàn áp, nhưng dập tắt ở nơi này lại bùng lên ở nơi khác. Nước Pháp ở trong tình trạng sôi sục lòng căm thù chế độ phong kiến, tình thế cách mạng đã chín muồi.
II. QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN CỦA CÁCH MẠNH PHÁP (1789 – 1794)
Mùa hè năm 1789, nước Pháp đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đại cách mạng tư sản. Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản đã đứng dậy tiến hành đấu tranh lật đổ nền quân chủ chuyên chế phong kiến, lập lên chế độ tư bản chủ nghĩa. Quá trình đó có thể diễn ra ba giai đoạn.
GIAI ĐOẠN 1: CÁCH MẠNG BÙNG NỔ VÀ NỀN THỐNG TRỊ CỦA ĐẠI TƯ SẢN LẬP HIẾN
GIAI ĐOẠN 2 NỀN THỐNG TRỊ CỦA TƯ SẢN CỘNG HOÀ GIRÔNGĐANH.
GIAI ĐOẠN3 NỀN CHUYÊN CHÍNH DÂN CHỦ CÁCH MẠNG GIACÔBANH.
A. GIAI ĐOẠN 1: CÁCH MẠNG BÙNG NỔ VÀ NỀN THỐNG TRỊ CỦA ĐẠI TƯ SẢN LẬP HIẾN
(14 – 7 – 1789 đến 10 – 8 – 1792) ngày 5 – 5 Hội nghị Ba cấp khai mạc tại cung điện Vecxai dưới sự chủ toạ của vua. Ngay từ đầu, những người đại diện cho đảng cấp thứ ba đã bị đối xử khinh miệt.
Cuộc đấu tranh nổ ra trước tiên xoay quanh vấn đề kiểm tra tư cách đại biểu. Ngày 6 – 5 đại biểu của hai đẳng cấp có đặc quyền họp riêng kiểm tra tư cách đại biểu của mình và vẫn giữ lối bỏ phiếu theo dẳng cấp. Như vậy dù dẳng cấp thứ ba có đông đại biểu tới đau đi chăng nữa thì vẫn ở vào thế yếu. Vì vậy họ đấu tranh cho việc kiểm tra tư cách đại biểu chung và bỏ phiếu theo đầu người.
Ngày 10 – 6 mặc dù đại biểu của hai đẳng cấp trên không đến họp chung, đẳng cấp thứ ba vẫn cứ tiến hành kiểm tra tư cách của tất cả các đại biểu. Ngày 17 – 6, sau khi kiểm tra xong các đại biểu ủa đẳng cấp thứ ba tự tuyên bố hành lập Hội đồng dân tộc. Nhà vua đã phản kháng bằng việc cho đóng cửa cung điện không cho các đại biểu đến họp. Trước thái độ đó, nhân dân đã cùng các đại biểu của mình đi đến họp tại phòng đánh cầu. Ở đây, họ thông qua một nghị quyết quan trọng, thề sẽ không giải tán và sẽ họp ở bất cứ nơi nào cho đến khi thảo xong hiến pháp.
Ngày 23 – 6 các đại biểu của đẳng cấp thứ ba được triệu tập về cung điện Vecxai. Nhưng sau khi đọc diễn văn nhà vua ra lệnh phân tán về làm việc theo từng đẳng cấp. Không một ai trong đẳng cấp thứ ba được dời khỏi chỗ. Nhân dân bên ngoài ùa vào cùng các đại biểu
Ngày 9 – 7, hội đồng dân tộc tự tuyên bố thành Quốc hội lập hiến để xác định quyền của mình trong việc ban hành luật lệ nhà nước. Trước tình hình đó nhà vua tìm mọi cách để đàn áp nhằm dập tắt ý định đó, nhưng càng làm cho làn sóng công phẫn trong các giới ở Paris bùng lên mạnh mẽ.
Cuộc khởi nghĩa 14 – 7 –1789 ở Paris
Từ ngày 12 – 7 quần chúng lao động và những người tư sản đã tự vũ trang cho mình bằng vũ khí thô sơ: súng, dao, giáo mác… Các cử tri ở Paris quyết định thành lập một cơ quan chính quyền thành phố mới gọi là Uỷ ban thường trực và tổ chức lực lượng vũ trang dân binh là Vệ quốc quân. Ngày 14 – 7 quần chúng cách mạng chiếm được hầu hết cơ quan và các vị trí quan trọng trong thành phố. điều quan trọng nhất là nhà tù Baxti bị thát thủ, nó đánh dấu sự thắng lợi củ cách mạng. Toà thành kiên cố, sừng sững hàng trăm năm tượng trưng cho nền quân chủ chuyên chế hà khắc tưởng như bất di bất dịch, phút chốc đã rơi và tay quần chúng nhân dân cách mạng.
Như vậy, ngày 14 – 7 – 1789 được vĩnh viễn ghi vào lịch sử vinh quang của nhân dân Pháp, làm rung chuyển toàn bộ cơ cấu chính quyền phong kiến trong cả nước và có tiếng vang mạnh mẽ tới châu Âu và châu Mỹ .
Cao trào cách mạng trong toàn quốc.
Thắng lợi cách mạng ở Paris được củng cố chắc chắn là nhờ phong trào đấu tranh củ đa số nông dân trong toàn quốc. Tháng 7 và tháng 8, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ ở các địa phương:không trả tô, đốt nhà địa chủ, thủ tiêu đặc quyền phong kiến, xử tử những tên địa chủ gian ác.
Ở thành phố cũng tiến hành phá tan bộ máy chính quyền cũ, lịch sử gọi là Cách mạng thị chính. Tin tức từ Paris đưa tới làm cho nhân dân các địa phương phấn khởi, đứng dậy đập phá nhà cửa của các viên tổng trấn, ùa vào toà thị chính và thủ tiêu các văn khế phong kiến, trao chính quyền cho những người tư sản giầu có ở địa phương. Các đội vệ quốc quân ở Paris và ở các địa phương được thành lập.
Sự kiện chiếm nhà ngục Baxti, phong trào cách mạng củ nông dân, cuộc cách mạng thị chính ở các thành phố là những đòn đả kích mạnh mẽ vào chế độ phong kiến chuyên chế, đem lại thắng lợi căn bản cho cách mạng. Chính quyền mới của giai cấp tư sản được thành lập, thay thế cho hệ thống chính quyền quân chủ phong kiến.
Chính quyền lập hiến và những hoạt động của nó.
Khi nền quân chủ chuyên chế bị lật đổ chính quyền được chuyển giao vào tay phái Lập hiến. Ngay từ những ngày đầu phái này đã bắt tay vào việc soạn thảo “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền”. Ngày 26 – 8 – 1789, quốc hội lập hiến thông qua bản tuyên ngôn gồm 17 khoản.
Tuyên ngôn đã nêu lên quyền tự do bình đẳn của con người: “Mọi người sinh ra được tự do và bình quyền”. Tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, an ninh, và tự do chống áp bức đựơc coi là những tín ngưỡng tự nhiên và tuyệt đối của con người. Nhưng quyền tư hữu cũng được coi là “quyền bất khả xâm phạm và thiêng liêng”.
Khi tuyên bố quyền tư hữu là bất khả xâm phạm, bản tuyên ngôn cũng do đó hựp pháp hoá về bất bình đẳng về tài sản và sự bóc lột của người có của đối với người không có của, của người giàu đối với người nghèo do tình trạng bất bình đẳng về tài sản sinh ra. Nhưung trong thế kỉ mà sự cướp bóc của phong kiến đang hoành hành, thì dó là điều không những chống lại những người có của, mà còn chống lại bọn phong kiến, và có nhiệm vụ bảo vệ quyền tư hữu của tư sản và của nông dân chống mọi sự xâm phạm củ phong kiến.
Tuy nhiên, tính chất tiến bộ của bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền cũng bị hạn chế do hoàn cảnh lịch sử. Khi tuyên bố quyền tư hữu “bất khả xâm phạm và thiêng liêng” các tác giả của tuyên ngôn đã vạch rõ tính chất tư sản của nó. Khi mà quyền tư hữu được bảo vệ như là một thứ quyền “thiêng liêng”, thì chỉ có thể là sự bình đẳng hình thức, không chút nào xoá bỏ sự bình đẳng về tài ản và bảo đảm những điều kiện tốt nhất cho sự bóc lột tư sản chủ nghĩa của giai cấp tư sản.
Những chính sách của Quốc hội lập hiến. Hiến pháp 1791.
Chính sách ruộng đất, Hội đồng tuyên bố huỷ bỏ hoàn toàn các trật tự và đặc quyền phong kiến như: thuế xăng (cens), tô hiện vật, tô lao dịch, thuế thừa kế ruộng đất…
Chính sách công thương nghiệp: Quốc hội quyết định bãi bỏ quy chế phường hội, cho phép tự do buôn bán lúa mì, cấm nhâp cảng sợi lang và các vât liệu xây dựng để khuyến khích sản xuất trong nước.
Từ tháng 5 đến tháng 6 – 1790 Quốc hội chú ý tới việc tổ chức, thống nhất, xoá bỏ thuế quan nội địa… những biện pháp đó có ý nghĩa tiến bộ lớn vì nó đã gạt bỏ được những nhân tố kìm hãm sự phát triên của công thưng nghiệp, xoá bỏ ranh giới của các khu vực và góp phần rất lớn vào việc hoàn thành quá trình hình thành dân tộc Pháp.
Chính sách đối với nhà thờ, Quốc hội lập hiến quyết định tịch thu tài sản nhà thờ làm tài sản quốc gia và đem bán. đến tháng 11 – 1790, Quốc hội quyết định giáo hội Pháp phải phục tùng quốc gia, không được lệ thuộc vào Vaticăng về mặt hành chính, các linh mục và dám mục phải do bầu cử,ăn lươngcủa nhà nước. Các công việc hộ tịch trước kia thuộc giáo hội, nay chuyển sang nhà nước. Đó là một chính sách tiến bộ
Năm 1791, Quốc hội ban hành hiến pháp mới, quy định chế độ quân chủ lập hiến ở nước Pháp. nhà vua là người đứng đầu nhà nước, là tư lệnh tối cao các lực lượng lục quân và hải quân, có quyền phê chuẩn hay bác bỏ các đạo luật, bổ nhiệm