Đề tài Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng, thực tiễn áp dụng tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm

Trong cơ chế thị trường hiện nay các Ngân hàng Thương mại đang ngày một phát triển mạnh mẽ và có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác, rủi ro trong hoạt động tín dụng là điều khó tránh khỏi. Nếu rủi ro liên tiếp xảy ra thì Ngân hàng Thương mại sẽ khó tránh khỏi sự phá sản và dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng, gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc dân. Bảo đảm tiền vay là biện pháp quan trọng nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người vay mà cũng là nhằm bảo đảm vốn đối với Ngân hàng Thương mại. Nếu biện pháp bảo đảm quá chặt chẽ thì hiệu quả sử dụng vốn sẽ thấp, ngược lại nếu biện pháp bảo đảm quá lỏng lẻo thì sự phát sinh tiêu cực, dẫn đến thất thoát vốn của ngân hàng thương mại. Vì vậy câu hỏi: "Biện pháp bảo đảm tín dụng ngân hàng như thế nào là hợp lý?" vẫn luôn là câu hỏi khó để có được lời giải đáp đúng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, trong thời gian thực tập ở NHNo & PTNT huyện Văn Lâm tôi đã chọn đề tài "Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng, thực tiễn áp dụng tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm" với nội dung chủ yếu là nghiên cứu những vấn đề cho vay có bảo đảm bằng tài sản, từ đó đề xuất một số ý kiến và biện pháp cụ thể nhằm phần nào có được lời giải đáp câu hỏi trên. Đề tài được chia làm 3 chương: Chương I: Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng Chương II: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật trong công tác bảo đảm tiền vay tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm. Với những hiểu biết còn hạn chế của một sinh viên cũng như thời gian xâm nhập thực tế chưa nhiều, bài viết này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót về mặt lý luận và thực tiễn. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy, cô cùng toàn thể những ai quan tâm đến đề tài này để bài viết được hoàn thiện hơn.

doc76 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng, thực tiễn áp dụng tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong cơ chế thị trường hiện nay các Ngân hàng Thương mại đang ngày một phát triển mạnh mẽ và có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác, rủi ro trong hoạt động tín dụng là điều khó tránh khỏi. Nếu rủi ro liên tiếp xảy ra thì Ngân hàng Thương mại sẽ khó tránh khỏi sự phá sản và dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng, gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc dân. Bảo đảm tiền vay là biện pháp quan trọng nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người vay mà cũng là nhằm bảo đảm vốn đối với Ngân hàng Thương mại. Nếu biện pháp bảo đảm quá chặt chẽ thì hiệu quả sử dụng vốn sẽ thấp, ngược lại nếu biện pháp bảo đảm quá lỏng lẻo thì sự phát sinh tiêu cực, dẫn đến thất thoát vốn của ngân hàng thương mại. Vì vậy câu hỏi: "Biện pháp bảo đảm tín dụng ngân hàng như thế nào là hợp lý?" vẫn luôn là câu hỏi khó để có được lời giải đáp đúng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, trong thời gian thực tập ở NHNo & PTNT huyện Văn Lâm tôi đã chọn đề tài "Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng, thực tiễn áp dụng tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm" với nội dung chủ yếu là nghiên cứu những vấn đề cho vay có bảo đảm bằng tài sản, từ đó đề xuất một số ý kiến và biện pháp cụ thể nhằm phần nào có được lời giải đáp câu hỏi trên. Đề tài được chia làm 3 chương: Chương I: Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng Chương II: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật trong công tác bảo đảm tiền vay tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm. Với những hiểu biết còn hạn chế của một sinh viên cũng như thời gian xâm nhập thực tế chưa nhiều, bài viết này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót về mặt lý luận và thực tiễn. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy, cô cùng toàn thể những ai quan tâm đến đề tài này để bài viết được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Tính tất yếu của vấn đề bảo đảm tiền vay của NHTM 1.1. Cho vay - hoạt động chủ yếu của NHTM Xã hội phát triển và đi lên được là nhờ các hoạt động tái sản xuất. Để có thể tái sản xuất vật chất được cần rất nhiều yếu tố, trong đó vốn là yếu tố chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, không phải lúc nào người kinh doanh cũng có sẵn vốn, còn những người nắm giữ những khoản vốn trong tay lại chưa chắc tìm được cơ hội kinh doanh. Nói cách khác, tại một thời điểm, luôn xảy ra tình trạng có người thừa vốn và có người thiếu vốn vấn đề này có thể giải quyết qua thị trường tài chính với 2 cách thực hiện khác nhau. Cách thức nhất: Người thừa vốn và người thiếu vốn gặp nhau trực tiếp để trao đổi và thoả thuận với nhau, đó là tài chính trực tiếp. Cách thứ hai: Là tài chính gián tiếp tức có sự hiện diện của người trung gian, khi đó mới quan hệ giữa hai người (trực tiếp) tách thành hai mối quan hệ mới: giữa người thừa vốn với người trung gian và người thiếu vốn với người trung gian. Người thừa vốnvà người thiếu vốn (không như cách thứ nhất) hoàn toàn không biết nhau. Thoạt nhìn có vẻ như cách thứ hai phức tạp hơn vì quan hệ vay mượn có sự xuất hiện của người thứ ba, song không hẳn như vậy. Thật khó để hai người thừa vốn và thiếu vốn với những đặc điểm về nguồn vốn cần hoặc có khác nhau có thể gặp nhau và trao đổi với nhau. Bởi lẽ thường những người thừa vốn muốn cho vay trong khoảng thời gian ngắn với số lượng nhỏ. Trong khi những người cần vốn luôn yêu cầu một khoản vay lớn và muốn nắm giữ trong thời gian dài. Nghĩa là có cả sự khác biệt về không gian , thời gian, khối lượng vốn, rủi ro chấp nhận - tạo khoảng cách giữa hai người.Song, nếu như các đòi hỏi về vốn được thoả mãn thì cuộc trao đổi trực tiếp cũng vẫn khó xảy ra do cản trở của thông tin và chi phí giao dịch. Các bên giao dịch nhất là người thừa vốn trước khi ra quyết định cho vay cần phải tìm kiếm thông tin về người vay, đánh giá xem anh ta có thể tin tưởng để giao cho sử dụng số vốn của mình hay không. Sau đó họ lại phải tốn thêm một khoản phí không nhỏ để ký hợp đồng một cách chặt chẽ, đảm bảo sự bình đẳng về nhiệm vụ và quyền hạn của hai bên. Tuy nhiên, sự phức tạp đó không đến với họ khi sử dụng cách thứ hai. Do mối quan hệ được tách làm hai, những người cần vốn luôn luôn có thể đòi hỏi ở các trung gian tài chính bất cứ một yêu cầu nào về vốn nào, trong khi những người thừa tiền hoàn toàn có thể tin tưởng giao tiền của mình cho các trung gian tài chính vì những tổ chức đó nắm thông tin rất tốt. Thêm vào đó vì những trung gian tài chính thực hiện nhiệm vụ chuyên biệt với số lượng lớn các giao dịch nên chi phí cho mỗi lần giao dịch là hầu như không đáng kể.Do vậy, điều dễ hiểu là tại sao các trung gian tài chính lại quan trọng nhiều hơn các tài chính trực tiếp và phần lớn số vốn cung cấp cho nền kinh tế đều thông qua trung gian tài chính này. Các trung gian tài chính được chia ra thành nhiều loại khác nhau như các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ hỗ trợ… song có thể nói ngân hàng là đại diện lý tưởng cho trung gian tài chính vì chức năng cơ bản của trung gian tài chính được thể hiện một cách đầy đủ thông qua hoạt đông ngân hàng. Các ngân hàng có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu. Trước đây hệ thống ngân hàng chỉ có một cấp. Tuy nhiên, do vai trò quan trọng và tầm ảnh hưởng rộng lớn của nó, hệ thống ngân hàng hiện nay chia thành hai cấp bao gồm Ngân hàng Trung ương và Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước về các hoạt động của ngân hàng thương mại và thực hiện chính sách tiền tệ. Còn những ngân hàng thươngmại mới là những đơn vị thực hiện nhiệm vụ cơ bản của một ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng thương mại chính là đối tượng được đề cập đến trong bài viết này. Vì ngân hàng thương mại thực hiện những chức năng cơ bản của trung gian tài chính nên cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Theo cách hiểu hiện nay, ngân hàng thương mại là một tổ chức được thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Nói ngắn gọn hơn, hoạt động của ngân hàng thương mại được chia ra làm hai lĩnh vực cơ bản: Cấp tín dụng và làm dịch vụ (nhận tiền gửi, thanh toán…), theo thời gian ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Cấp tín dụng: là việc ngân hàng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác, trong đó phần lớn cho vay. Như vậy, cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó ngân hàng sẽ giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.Cho vay chính là một nội dung chủ yếu của hoạt động ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý chi phí trôi nổi, chi phí thuê các loại và chi phí rủi ro đầu tư. Bởi vì, như chúng ta đã biết bất cứ một tổ chức sản xuất kinh doanh nào muốn tồn tại và phát triển đều phải tìm kiếm lợi nhuận và bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh của mình. Đối với một tổ chức kinh doanh như ngân hàng thương mại, lợi nhuận thu được chủ yếu từ hoạt động cho vay bằng cách đặt một lãi suất cao hơn lãi suất phải trả cho việc huy động. Nhưng cũng chính phần lớn lợi nhuận mà ngân hàng thương mại kiếm được là từ hoạt động cho vay vì vậy buộc các ngân hàng thương mại phải thận trọng trong từng quyết định cho vay, bảo đảm sao cho các khoản vay đều luôn tuân thủ nguyên tắc có hoàn trả gốc lẫn lãi, một nguyên tắc được xem như là bất di bất dịch, là cơ sở đảm bảo cho hoạt động ngân hàng được liên tục và phát triển. Do vậy để thực hiện trọn vẹn nguyên tắc hoàn trả, ngoài việc xây dựng quy trình cho vay khoa học, chặt chẽ, các ngân hàng thương mại phải chú trọng tới việc phân tích, đánh giá khả năng đảm bảo của khoản vay, hay nói cách khác, các ngân hàng thương mại phải xem xét đến vấn đề bảo đảm tiền vay. 1.2. Tính tất yếu của vấn đề bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại. Để làm rõ tại sao việc bảo đảm tiền vay lại là một điều tất yếu, cần xem xét đến mục đích cũng như rủi ro gặp phải của ngân hàng thương mại khi thực hiện cho vay. 1.2.1.Mục đích của ngân hàng thương mại khi thực hiện cho vay. Như đã đề cập, cho vay là hoạt động chủ yếu và đem lại phần lớn lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại. Bằng nguồn vốn huy động được, các ngân hàng thương mại tiến hành cho vay đối với nền kinh tế và khi cho vay thì ngân hàng thương mại luôn có những mục tiêu cụ thể, nhưng thực chất đều hướng tới hai mục đích cuối cùng là an toàn và lợi nhuận. Lợi nhuận luôn là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ một tổ chức kinh tế nào. Ngân hàng thương mại cũng không nằm ngoài quy luật này. Giữa việc tìm kiếm lợi nhuận và cho vay có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cho vay chính là cơ sở của việc nhận tiền gửi, vì nó quyết định việc có trả được tiền gửi cùng với lãi suất tiền gửi hay không. Hơn nữa, chuỗi hoạt động của ngân hàng, từ nhận tiền gửi đến khi cho vay và thu về khoản vay cộng với lãi tiền vay, trả tiền gửi và lãi tiền gửi. Không phải chỉ ngân hàng làm nhiệm vụ của một chiếc cầu nối giữa người thiếu vốn và người thừa vốn, mà hơn cả, đó chính là quy trình tìm kiếm và thu về lợi nhuận của ngân hàng.Thêm vào đó, do các khoản cho vay là kém lỏng nhất và có rủi ro không trả được cao nhất nên các ngân hàng cũng phải thu lợi nhuận cao nhất từ các khoản cho vay này. Nhưng liệu lợi nhuận hay khả năng sinh lợi có phải là yếu tố cao nhất và duy nhất chi phối hoạt động cho vay hay không? Một đặc trưng riêng có của các ngân hàng thương mại nhằm phân biệt với các tổ chức tài chính khác là ngân hàng cho vay dựa trên số tiền của các tổ chức, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng mà không phải của chính ngân hàng. Vì vậy tuy đồng vốn cho vay ra nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng nhưng vẫn phải chịu sức ép từ phía người gửi tiền. Một khoản vay có chất lượng không tốtkhông những khiến ngân hàng bị thiệt hại mà còn gây tâm lý e ngại, lo lắng đối với những người đã và sẽ gửi tiền vào ngân hàng, đồng thời khiến những người gửi tiền đồng loạt đến ngân hàng để rút tiền làm cho ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có nguy cơ dẫn đến phá sản. Vì vậy cần thấy rằng một khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng thì mong muốn kiếm một khoản lãi từ số tiền gửi không phải là yếu tố chi phối hàng đầu mà là sự tín nhiệm, tin tưởng đối với ngân hàng. Chính vì sự tín nhiệm kéo theo trách nhiệm này, ngân hàng buộc phải cân nhắc xem xét kỹ từng khoản vay trước cũng như trong suốt quá trình cho vay. Nhiều khi, dù khả năng sinh lời vẫn được coi là hàng đầu, ngân hàng vẫn phải gác lại để nhường chỗ cho những nguyên tắc đạo đức đã trở thành trụ cột cho hoạt động ngân hàng vì lợi ích của người gửi tiền bằng sự an toàn cho các khoản cho vay và bảo đảm uy tín cho ngân hàng. Nói tóm lại, mỗi khoản cho vay ngân hàng đều không nằm ngoài mục đích an toàn và lợi nhuận. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng mục tiêu lợi nhuận chỉ có thể đạt được khi mục tiêu an toàn được đảm bảo. 1.2.2. Rủi ro trong cho vay. Theo quan niệm của các nhà quản lý hoạt động ngân hàng thì rủi ro được hiểu là những tổn thất phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Có nhiều loại rủi ro như rủi ro cho vay, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá. Rủi ro cho vay thuần tuý là rủi ro gặp phải do người cho vay đến hạn không trả được nợ hoặc không tuân thủ đúng các điều kiện thoả thuận cho hợp đồng tín dụng giữa người vay và ngân hàng. Rủi ro cho vay thuần tuý được chia làm hai loại: rủi ro thông thường và rủi ro đầu cơ. Rủi ro thông thường là rủi ro gây nên do công tác quản lý kém, tính toán sai, thể hiện trong cho vay và kỹ thuật phân tích tín dụng kém. Còn rủi ro đầu cơ là loại rủi ro luôn đi kèm với lợi nhuận với ý nghĩa: rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Vì vậy, rủi ro đầu cơ có sự chấp thuận tuỳ thuộc vào người kinh doanh. Người kinh doanh phải lường trước được rủi ro mà nếu muốn đạt được một mức lợi nhuận cao nào đó, họ phải chấp nhận rủi ro đó. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu ở đây không đề cấp đến rủi ro đầu cơ mà chính rủi ro thông thường mới là rủi ro mà bất cứ một ngân hàng thương mại nào đều muốn nó không xảy ra hoặc chỉ ít cũng phải giảm đến mức tối thiểu để đạt được mục đích (nói như vậy không có nghĩa là rủi ro đầu cơ không hướng tới lợi nhuận siêu ngạch dành cho các món vay mạo hiểm và như vậy nó không nằm trong phạm vi nghiên cứu cuả bài viết này). Sự kết hợp hai vấn đề trên: Mục đích an toàn và lợi nhuận của các khoản vay có thể gặp nhằm rút ra một điều: các khoản vay để có thể giảm được tối thiểu rủi ro nhằm đạt đến mục đích đòi hỏi phải xem xét đến tính bảo đảm ngay từ khi quyết định cho vay. 2. Hợp đồng tín dụng ngân hàng Trong công tác tín dụng thì việc đảm bảo tiền vay là điều rất quan trọng, trong đó hợp đồng tín dụng là cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo tiền vay, chính vì vậy sau đây ta đi tìm hiểu những quy định về hợp đồng tín dụng. 2.1. Khái niệm về hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa ngân hàng với các pháp nhân, thể nhân nhằm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ nhất định trong việc chuyển giao quyền sử dụng vốn tạm thời từ người cho vay sang người vay theo nguyên tắc hoàn trả dựa trên cơ sở pháp luật. Hợp đồng tín dụng ngân hàng chính là hình thức pháp lý của quan hệ tín dụng ngân hàng, nó phản ánh sự thoả thuận trực tiếp của các bên trong việc xác định lập một quan hệ tín dụng, xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên trong việc vay và hoàn trả vốn vay. 2.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng ngân hàng được thoả thuận bằng văn bản giữa bên cho vay và bên đi vay. Hợp đồng tín dụng ngân hàng được thực hiện giữa tổ chức tín dụng với pháp nhân và cá nhân theo quy định của pháp luật. Hợp đồng tín dụng ngân hàng có sự bắt buộc phải có các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng: cầm cố, thế chấp bảo hành… Đây là điểm bắt buộc áp dụng chứ không đơn thuần là sự thoả thuận trong hợp đồng. Một bên ký kết hợp đồng phải là tổ chức tín dụng. Sau khi ký kết hợp đồng thì người sở hữu tiền tệ phải giao quyền sử dụng tiền tệ đó cho người vay trong thời gian nhất định, được quy định trong hợp đồng. Hết thời hạn sử dụng, người sử dụng phải hoàn trả cho người sở hữu tiền tệ với số tiền là cả gốc lẫn lãi. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, người cho vay chỉ trao quyền sử dụng vốn chứ không trao quyền sở hữu. Hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết bằng hình thức văn bản, ngôn ngữ được sử dụng trong hợp đồng là tiếng việt (có thể kèm theo một bản tiếng nước ngoài). Lãi suất cho vay không được quá mức lãi suất trần của Thống đốc ngân hàng Nhà nước. 2.3. Ký kết hợp đồng tín dụng 2.3.1. Chủ thể ký kết và khách thể ký kết. * Chủ thể cho vay: Các loại ngân hàng sau là người cho vay trong các quan hệ pháp luật tín dụng ngân hàng. + Ngân hàng Nhà nước là người cho vay trong quan hệ các tổ chức tín dụng và kho bạc Nhà nước. + Ngân hàng thương mại là người cho vay trong quan hệ với các pháp nhân và thể nhân. *Chủ thể đi vay: + Là các pháp nhân: Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Là cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự + Là hộ gia đình, tổ hợp tác, công ty hợp danh. * Khách thể: Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất (hoặc phi vật chất) mà các chủ thể nhằm hướng tới khi tham gia vào quan hệ pháp luật đó. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, mục tiêu ý chí mà các chủ thể hướng tới là việc chuyển giao một số tiền nhất định từ người cho vay sang người đi vay để thoả mãn lợi ích của các bên. Do đó về mặt lý luận có thể coi khách thể của quan hệ tín dụng ngân hàng là tiền và các giấy tờ có giá khác. Trong thực tế các chủ thể đều hướng tới việc chuyển giao một số tiền nhất định nhưng mục đích của từng chủ thể có khác nhau. Ngân hàng cho vay nhằm mục đích kiếm lãi. Khách hàng vay nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn trong kinh doanh. 2.3.2. Nội dung của hợp đồng tín dụng ngân hàng. Hợp đồng tín dụng ngân hàng gồm có những nội dung sau: + Tên, địa chỉ các bên ký kết. + Số tiền vay bằng cả chữ và số. + Điều kiện vay + Mục tiêu sử dụng vốn + Phương thức cho vay + Lãi suất với số vốn vay + Thời hạn vay + Hình thức bảo đảm + Quyền của bên cho vay + Quyền và nghĩa vụ của bên đi vay 2.3.3. Quá trình ký kết hợp đồng * Đơn xin vay: Do chủ thể đi vay làm theo mẫu in sẵn của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng gửi tới chủ thể đi vay. Trong đó trình bày rõ số tiền định vay, phương án sử dụng vốn vay, thời hạn vay, phương thức bảo đảm tiền vay… có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc đại diện của doanh nghiệp. * Thẩm định hồ sơ xin vay: Do cán bộ của tổ chức tín dụng thẩm định, thẩm định về tư cách pháp lý, phương án sử dụng vốn, phương án trả nợ của chủ thể đi vay. * Quyết định cho vay: Sau khi được cấp có thẩm quyền của tổ chức tín dụng xem xét, việc cho vay có thể thực hiện hay không phụ thuộc vào điều lệ của tổ chức tín dụng. 2.3.4. Thực hiện hợp đồng. Là quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên + Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay + Quyền của bên cho vay + Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. + Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. + Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc người bảo lãnh theo quy định của pháp luật. + Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ. Nếu các bên không có thoả thuận khác, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm vốn ay theo sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường hợp khách hàng được bảo lãnh vay vốn, chỉnh kỳ hạn nợ thực hiện theo quy định tại quy chế này: mua bán nợ theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt nam và thực hiện việc đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ theo quy định của chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nghĩa vụ của bên cho vay: + Thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng + Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với qui định của pháp luật. * Quyền và nghĩa vụ của bên đi vay - Quyền: + Từ chối các yêu cầu của tổ chức tín dụng không đúng với các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. + Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của pháp luật. - Nghĩa vụ. +Cung cấp đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin, tài liệu đã cung cấp. +Sử dụng vốn vay đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và các kết khác. + Trả nợ cả gốc và lãi và với vốn vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. + Chịu trách nhiệm đúng pháp luật khi không thực hiện đúng các thoả thuận về việc trả nợ vay và thực hiện đúng những thoả thuận về việc trả nợ vay và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. 2.3.5. Giải quyết tranh chấp. Trong hợp đồng tín dụng thì được chia làm hai loại là hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Vì trong bài viết này chỉ đề cập đến hợp đồng kinh tế nên ở đây chỉ có cách giải quyết là hợp đồng kinh tế. Đối với hợp đồng tín dụng là hợp đồng kinh tế thì giải quyết tranh chấp theo pháp lệnh hợp đồng kinh tế, những thủ tục và quá trình giải quyết phải tuân theo pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồngg kinh tế. Sau đây ta đi tìm hiểu chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng là hợp đồng kinh tế. II. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN D
Tài liệu liên quan