Đến thời điểm này, quá trình hội nhập kinh tế thé giới của Việt Nam diễn ra một cách mạnh mẽ. Bên cạnh nỗi lo cạnh tranh của các doanh nghiệp, nông dân nước ta cũng đang đứng trước một thách thức không nhỏ. Nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng nông sản hàng hóa là biện pháp sống còn để hội nhập, trong đó, không thể thiếu vai trò của công nghệ. Làm thế nào để đưa sản phẩm công nghệ đến tay nông dân là một thực tế gắt gao đang đặt ra.
Theo đánh giá của các nhà khoa học, trong vòng 5 năm gần đây, công nghệ đã đóng góp khoảng 30% trong giá trị tăng trưởng của nông nghiệp ở nước ta. Trên cơ sở xây dựng mối liên kết giữa các nhà khoa học và nông dân, các cơ quan nghiên cứu đã nắm bắt được những đòi hỏi của thực tế sản xuất và nhu cầu của xã hội, nên đã có những định hướng nghiên cứu phù hợp và thu được những thành tựu nổi bật.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã giao cho Bộ Khoa học – Công nghệ xây dựng chương trình chuyển giao ứng dụng KH – CN vào phục vụ nông nghiệp nông thôn ( giai đoạn 2004 – 2010 ). Mục tiêu của chương trình này là chuyển giao các mô hình đã được khẳng định như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; giống mới, công nghệ mới; cung cấp thông tin KH – CN cho nông dân.
Thế nhưng, những công nghệ đã được áp dụng hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu. Ở nước ta, thành quả KH – CN không ít, thậm chí có thể nói là phải “trùm mền” ở các viện, trường nhưng nông dân vẫn đói công nghệ là một nghịch lý khó chấp nhận.
Tuy vậy, nghịch lý ấy vẫn đang tiếp tục diễn ra. Điều này khiến các nhà khoa học nóng ruột và đi tìm nguyên nhân. Có 5 yếu tố ảnh hưởng đến “đường đi” của công nghệ xuống đồng ruộng, đó là cơ sở hạ tầng, thị trường, hình thức khuyến nông, trình độ nắm bắt của nông dân và phương pháp khuyến nông chưa phù hợp. Trong đó, kiến thức nhà nông và phương pháp khuyến nông đóng vai trò quan trọng. Nông dân lúc nào cũng ngại tình trạng nhiều người biết, nhiều người làm; bộ máy khuyến nông thì đang bị “ hành chính hóa”, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật; chính quyền địa phương thì xem nhẹ công tác này, trong khi nhà khoa học không thể đủ sức để đến tận cơ sở.
Chưa lúc nào, yêu cầu chuyển giao công nghệ cho nông dân lại đặt ra hết sức gay gắt như lúc này. Muốn hay không, việc hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng sẽ đem lại không ít bất lợi, nếu sản xuất nông nghiệp thiếu bước chuyển mình thật sự. Nông dân hiện nay rất cần kỹ thuật cao; cần được các nhà khoa học, quản lý và nhà nước chăm sóc tốt hơn nữa. Tuy nhiên, điều này không thể nói suông, mà phải cụ thể hóa bằng chính sách.
Vì thế công nghệ muốn nhanh chóng được nông dân chấp nhận và áp dụng rộng rãi thì phải thực hiện sự vượt trội cả về khía cạnh kỹ thuật lẫn hiệu quả kinh tế, nghĩa là giá thành phải hạ và chất lượng phải cao. Thế nhưng, chuyển giao bằng cách nào và làm thế nào để nông dân đón nhận công nghệ không phải là chuyện đơn giản.
Khi chuyển giao cho nông dân phải có phương thức phù hợp, có mục tiêu sản xuất rõ ràng, phải phù hợp với trình độ và khả năng của nông dân. Phải chuyển giao công nghệ bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng trên mô hình và máy móc, thiết bị cụ thể là chính. Trong tất cả các phương pháp chuyển giao KH – CN thì việc xây dựng các mô hình trình diễn có vai trò hết sức quan trọng. “Trăm nghe không bằng một thấy”. Thông qua hiệu quả các mô hình trình diễn, người nông dân sẽ dễ dàng tiếp thu và tin tưởng vào các tiến bộ KH – CN được giới thiệu
Vì thế, muốn chuyển giao công nghệ thành công và bền vững phải có mạng lưới cán bộ khoa học cấp cơ sở có trình độ trung cấp trở lên tiếp nhận trước rồi hướng dẫn cụ thể cho nông dân.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài hướng dẫn chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp, mong muốn khắc phục được phần nào thực trạng nền kinh tế Việt Nam và hợn thế là mong muốn phát triển nền nông nghiệp Việt Nam vươn tới một tầm cao mới.
23 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
Đề tài: CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Nhóm thực hiện: Nhóm DMF_A2_CD_KII_FTU
Nguyễn Bình Minh
Nguyễn Hoàng
Vũ Thu Phương
Nguyễn Thị Thu Trang
Nguyễn Phương Thảo
Nguyễn Thuỳ Linh
Võ Thị Bảo Ngọc
Nguyễn Ngọc Mai
Nguyễn Thị Thanh Tú
Trần Quang Huy
Hoàng Thành Đạt
A.Phần mở đầu
I/ Đ ặt v ấn đ ề
Đến thời điểm này, quá trình hội nhập kinh tế thé giới của Việt Nam diễn ra một cách mạnh mẽ. Bên cạnh nỗi lo cạnh tranh của các doanh nghiệp, nông dân nước ta cũng đang đứng trước một thách thức không nhỏ. Nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng nông sản hàng hóa là biện pháp sống còn để hội nhập, trong đó, không thể thiếu vai trò của công nghệ. Làm thế nào để đưa sản phẩm công nghệ đến tay nông dân là một thực tế gắt gao đang đặt ra.
Theo đánh giá của các nhà khoa học, trong vòng 5 năm gần đây, công nghệ đã đóng góp khoảng 30% trong giá trị tăng trưởng của nông nghiệp ở nước ta. Trên cơ sở xây dựng mối liên kết giữa các nhà khoa học và nông dân, các cơ quan nghiên cứu đã nắm bắt được những đòi hỏi của thực tế sản xuất và nhu cầu của xã hội, nên đã có những định hướng nghiên cứu phù hợp và thu được những thành tựu nổi bật.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã giao cho Bộ Khoa học – Công nghệ xây dựng chương trình chuyển giao ứng dụng KH – CN vào phục vụ nông nghiệp nông thôn ( giai đoạn 2004 – 2010 ). Mục tiêu của chương trình này là chuyển giao các mô hình đã được khẳng định như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; giống mới, công nghệ mới; cung cấp thông tin KH – CN cho nông dân...
Thế nhưng, những công nghệ đã được áp dụng hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu... Ở nước ta, thành quả KH – CN không ít, thậm chí có thể nói là phải “trùm mền” ở các viện, trường nhưng nông dân vẫn đói công nghệ là một nghịch lý khó chấp nhận.
Tuy vậy, nghịch lý ấy vẫn đang tiếp tục diễn ra. Điều này khiến các nhà khoa học nóng ruột và đi tìm nguyên nhân. Có 5 yếu tố ảnh hưởng đến “đường đi” của công nghệ xuống đồng ruộng, đó là cơ sở hạ tầng, thị trường, hình thức khuyến nông, trình độ nắm bắt của nông dân và phương pháp khuyến nông chưa phù hợp. Trong đó, kiến thức nhà nông và phương pháp khuyến nông đóng vai trò quan trọng. Nông dân lúc nào cũng ngại tình trạng nhiều người biết, nhiều người làm; bộ máy khuyến nông thì đang bị “ hành chính hóa”, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật; chính quyền địa phương thì xem nhẹ công tác này, trong khi nhà khoa học không thể đủ sức để đến tận cơ sở...
Chưa lúc nào, yêu cầu chuyển giao công nghệ cho nông dân lại đặt ra hết sức gay gắt như lúc này. Muốn hay không, việc hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng sẽ đem lại không ít bất lợi, nếu sản xuất nông nghiệp thiếu bước chuyển mình thật sự. Nông dân hiện nay rất cần kỹ thuật cao; cần được các nhà khoa học, quản lý và nhà nước chăm sóc tốt hơn nữa. Tuy nhiên, điều này không thể nói suông, mà phải cụ thể hóa bằng chính sách.
Vì thế công nghệ muốn nhanh chóng được nông dân chấp nhận và áp dụng rộng rãi thì phải thực hiện sự vượt trội cả về khía cạnh kỹ thuật lẫn hiệu quả kinh tế, nghĩa là giá thành phải hạ và chất lượng phải cao. Thế nhưng, chuyển giao bằng cách nào và làm thế nào để nông dân đón nhận công nghệ không phải là chuyện đơn giản.
Khi chuyển giao cho nông dân phải có phương thức phù hợp, có mục tiêu sản xuất rõ ràng, phải phù hợp với trình độ và khả năng của nông dân. Phải chuyển giao công nghệ bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng trên mô hình và máy móc, thiết bị cụ thể là chính. Trong tất cả các phương pháp chuyển giao KH – CN thì việc xây dựng các mô hình trình diễn có vai trò hết sức quan trọng. “Trăm nghe không bằng một thấy”. Thông qua hiệu quả các mô hình trình diễn, người nông dân sẽ dễ dàng tiếp thu và tin tưởng vào các tiến bộ KH – CN được giới thiệu
Vì thế, muốn chuyển giao công nghệ thành công và bền vững phải có mạng lưới cán bộ khoa học cấp cơ sở có trình độ trung cấp trở lên tiếp nhận trước rồi hướng dẫn cụ thể cho nông dân.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài hướng dẫn chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp, mong muốn khắc phục được phần nào thực trạng nền kinh tế Việt Nam và hợn thế là mong muốn phát triển nền nông nghiệp Việt Nam vươn tới một tầm cao mới.
II/ Thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam
Nông nghiệp Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn của sự phát triển kinh tế như: qui mô sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, năng suất, độ đồng đều, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng hợp tác lien kết của nông dân Việt Nam còn rất yếu. Dịch vụ và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho việc phát triênt nông nghiệp nông thôn không theo kịp với đà tăng trưởng kinh tế của toàn xã hội. Việc cải cách hành chính chuyển đổi cơ cấu thể chế còn chậm, môi trường pháp lý đầu tư kinh doanh còn nhiều bất cập, thị trường đất, lao động, vốn, công nghệ chưa vận hành một cách thuận lợi.
Trong khi đó trên thế giới, quá trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao đang diễn ra mạnh mẽ trên diẹn rộng ở những nước có khoa học công nghệ phát triển. Đó là sự kết hợp ứng dụng các công nghệ trộng điểm của thời đại như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ nano để tạo ra nông sản có năng suất, chất lượng cao, giá thành hạ. Dựa vào công nghệ gen, các nước tiên tiến đã tạo ra được các giống cây trồng có năng suất cao, công nghệ chọn lọc lai tạo giốn, vật nuôi có thể rút ngắn thời gian nuôi, phát triển nhanh về số lượng nhờ công nghệ nhân bản vô tính. KHu công nghệ cao xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1939 và 40 năm sau Mỹ đã có trên một trăm khu. Ở Anh năm 1988 đã có 38 khu vường khoa học. Năm 2002, Trung Quốc đã xây dựng bốn trăm khu công nghệ cao, nhờ đó sự gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 42%, đạt giá trị sản lượng bình quân khoảng 40 nghìn đến 50 nghìn USD/ha/năm, gấp 40- 50 lần so với mô hình sản xuất trước đó. Nhờ ứng dụng thành công và hiệu quả công nghệ tưới phục vụ cho canh tác nông nghiệp cũng như trong hệ thống nhà kính, nhà lưới mà nền công nghiệp Ixraen có năng suất và chất lượng cao. Hiệu quả mang lại từ các mô hình trên đã khẳng định các mô hình công nghệ cao và khu nông nghiệp công nghệ cao đã và đang trở thành điển hình cho nền nông nghiệp trí thức của thế kỷ XXI
Nền nông nghiệp Việt Nam những năm qua đã xác lập được vị thế đáng ghi nhận trên thế giới thông qua một số loại nông sản như: hồ tiêu, cà fê, gạo, điều. Do tổ chức sản xuất nông nghiệp được đổi mới và khoa học công nghệ được tăng cường, chỉ trong 10 năm (1989-1998), sản xuất nông, lâm nghiệp của Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 4,3%/năm, sản lượng lương thực bình quân đạt 23,08 triệu tấn/ năm( mồi năm tăng bình quân hơn một triệu tấn, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng dân số). Khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam lien tục tăng, đưa nước ta trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Rau quả, cà fê, cao su, chè, điều, hồ tiêu cũng đều tăng về sản lượng, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta đang được triển khai ở nhiều địa phương theo các mẫu cải tiến nhà kính,nhà lưới của nước ngoài như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà Lạt. Ở Đông Nai, sự mạnh dạn đầu tư ứng dụng các giống cây trồng mới, năng suất cao và kỹ thuật chăm sóc tiến bộ vào sản xuất của nông dân đã khiến cho giá trị sản xuất nông lâm sản luôn giữ ở mức tăng trưởng khá. Cụ thể, năng suất các loại cây trồng đều tăng( năng suất lúa tăng 3,28%, bắp tăng 3,7%, mì tăng 3%, đậu tăng 7,6%...)
Tuy nhiên theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, những mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở trong nước chỉ mới xuất hiện, quy mô sản xuất cong nhỏ, công nghệ thiếu đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Trong thời gian qua, một số nông sản của Việt nam đã phải đối mặt với cạnh tranh của các sản phẩm nước ngoài và kết quả cho thấy sự hạn chế về năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Chẳng hạn, trong khi những sản phẩm nông nghiệp như gạo, rau quả có thể trụ vững trên thị trường “ bình dân”, thì gạo thơm hoa nhài Thái Lan lại chiếm lĩnh được hầu hết thị trường cấp cao trong nước. Trái cây Thái Lan ở phía nam và trái cây Trung Quốc ở phía bắc đang chia sẻ thị phần một cách có hiệu quả với trái cây Việt Nam ngay trên thị trường thành thị và một phần thị trường ở nông thôn. Dù có tiềm năng, song mía đường không cạnh tranh được với đường nhập ngoại, dẫn tới tình trạng một số nhà máy đường phải giải thể hoặc phá sản. Một số sản phẩm khác như bông, đậu tương, ngô có năng suất quá thấp, giá thành cao sẽ khó có thể cạnh tranh được với bông từ Trung Á hay Ai Cập và đậu tương và ngô từ Mỹ.
Có một thực tế đang tồn tại là trình độ sản xuất của bà con nông dân còn ở mức độ thấp, bộc lộ nhất là giống cây trồng, vật nuôi vẫn chưa kiểm dịch đầy đủ và cũng chưa kiểm soát nguồn gốc, chưa kiểm soát tốt phân hoá học, phân bón, công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá thương hiệu vẫn chưa đáp ứng theo chuẩn mực yêu cầu của quốc tế trong qua trình hội nhập, quy mô sản xuất bình quân diện tích đất trên một nông hộ còn rất thấp khoản 0,7-1 ha/hộ, vì vậy muốn sản xuất với quy mô lớn, chất lượng đồng đều là rất khó. Đi đôi với những bất lợi đó là việc giá thành sản xuất vẫn còn cao, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được quan tâm đầy đủ khi đưa sản phẩm ra thị trường
Đó là chưa kể một số vấn đề phát sinh, sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp nước ta trong thời gian tới: đất nông nghiệp và đất canh tác bình quân đầu người giảm do tăng dân số, đất đai bị xói mòn, thoái hoá do nạn phá rừng gây ra. Một số cây giống đang có dấu hiệu sớm thoái hoá đòi hỏi phải có những giống mới mạnh hơn, tốt hơn thay thế. Môi trường sinh thái cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng ở một số địa phương do chất thải công nghiệp, do sử dụng bừa bãi phân hoá học, hoá chất trừ sâu, diệt cỏ, gây ô nhiễm đất canh tác, nguồn nước mặt, nước ngầm và để dư lượng chất độc hại trong nông sản thực phẩm… Đây la môt vấn đề rất đáng lo ngại cho nền nông nghiệp của ta.
I/ Chuyển giao công nghệ trong trồng trọt
* Trồng l úa
1/Thực trạng về trồng lúa ở Việt Nam
Cây lúa là cây lương thực chiếm vị trí quan trọng cho các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam. Cho đến nay, hiện trạng sản xuất lúa gạo của nước ta đã đổi thay rất nhiều. Mặc lúa vẫn là cây trồng chủ yếu, có vị trí hết sức quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đóng góp khá lớn vào kim ngạch xuất khẩu nông sản (chiếm khoảng 25%) nhưng diện tích trồng lúa lại đang thu hẹp dần. Tính riêng về diện tích trồng lúa so với tổng diện tích gieo trồng chung cả nước năm 1991 chiếm tới 70%, đến năm 2001 còn 60%. Tuy nhiên, nhờ các tiến bộ khoa học được áp dụng, khả năng thâm canh của nông dân được nâng cao, cho nên năng suất, sản lượng lúa vẫn tăng.
Tuy nhiên, trong năm năm gần đây, mỗi năm sản lượng lúa vẫn tăng trung bình 700 nghìn tấn. Công cuộc chuyển dịch cơ cấu, trong đó việc quan trọng là giảm diện tích lúa chuyển sang các cây trồng khác cho lợi nhuận cao đang làm bức tranh nông nghiệp nước ta đổi thay từng ngày. Có thể nhận định công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đi từ chiều rộng đến chiều sâu. Giá trị trên một ha đất canh tác tăng từ 17 triệu đồng/ha lên 24 triệu đồng/ha, bình quân cả nước sau năm năm (2000-2005). Riêng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đạt gần 40 triệu đồng/ha. Các sản phẩm nông nghiệp phong phú, đa dạng, thể hiện sự phát triển toàn diện của ngành nông nghiệp. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông - lâm sản năm 2005 đạt 5,8 tỷ USD, tăng 29% so với năm trước, gấp hai lần kim ngạch năm 2001. Trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta, gạo vẫn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Khi thị trường xuất khẩu nông-lâm sản mở rộng sang hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ thì hạt gạo Việt Nam cũng đã có mặt hơn 40 nước. Hạt gạo Việt Nam cũng đã góp phần đưa vị thế nước ta ngày càng cao trên thế giới.Tính đến 15-01-2008, cả nước đã gieo cấy được 1894,1 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 101,5% cùng kỳ năm trước. Các địa phương phía Bắc gieo cấy 108,6 nghìn ha, bằng 102%, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng mới đạt 60% cùng kỳ năm trước; vùng Bắc Trung Bộ 90,4 nghìn ha, bằng 101,2%. Hiện nay, thời tiết đang rét và khô hạn, mực nước các sông xuống thấp, khả năng nhiều diện tích lúa sẽ bị thiếu nước, ngành thủy lợi và các địa phương cần chủ động khai thác và sử dụng mọi nguồn nước để đảm bảo cung cấp đủ cho sản xuất. Các địa phương phía Nam gieo sạ 1785,5 nghìn ha, bằng 101,5%, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1485,2 nghìn ha, bằng 99,5%; lúa đã gieo cấy hiện đang phát triển tốt, tuy nhiên thời tiết se lạnh và sương mù là điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát triển, vì vậy các địa phương cần tích cực chủ động phòng chống để hạn chế thiệt hại.
Có đựơc những kết quả trên, ko chỉ nhờ những kinh nghiệm của bà con nông dân trong viêc trồng lúa lâu năm, mà còn nhờ việc chúng ta đã biết áp dụng những công nghệ, khoa hoc kĩ thuật vào sản xuât, điều đó g úp cho năng suât đã tăng lên rõ rệt và chất lượng cũng tốt h ơn.
2/ một số ứng dụng công nghệ điển hình
a/ Công nghệ sinh học trong phòng trừ sâu bệnh hại lúa
Hiện nay tình hình sâu bệnh hại lúa hằng năm diễn biến thất thường. Đặc biệt trong năm 2003 dịch rầy nâu, bệnh cháy lá ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất cả nước và các tỉnh, thành nói riêng. Để hạn chế tình trạng này các Viện nghiên cứu đã sáng chế ra những công nghệ sinh học mang lại hiệu quả cao mà nổi bật la công nghệ chuyển đổi gen ở lúa
Trước đây, để tạo một giống mớI các nhà tạo giống thường sử dụng phương pháp truyền thống để tổ hợp lại các gien giữa hai cá thể lúa tạo ra con lai mang những tính trạng mong muốn. Tuy nhiên, phép lai chéo này bị hạn chế bởi nó chỉ có thể thực hiện được giữa các cá thể cùng loài ( lai gần), lai giữa các cá thể khác loài (lai xa) thường bất thụ do đó không thể tạo ra con lai được. Tuy nhiên, lai gần cũng phải mất nhiều thời gian mới thu được những kết quả mong muốn và thông thường những tính trạng quan tâm lại không tồn tại trong những loài có họ hàng gần nhau.
Ngày nay, công nghệ chuyển gien cho phép nhà tạo giống cùng lúc đưa vào một loài lúa những gien mong muốn có nguồn gốc từ những cơ thể sống khác nhau, không chỉ ở những loài có họ gần nhau mà còn ở những loài rất xa nhau. Phương pháp hữu hiệu này cho phép các nhà tạo giống lúa thu được giống mới nhanh hơn và vượt qua những kỹ thuật tạo giống truyền thống.
Nhìn chung việc ứng dụng cây lúa chuyển gien có những lợi ích rõ rệt sau: cây lúa chuyển gien có khả năng kháng các vi khuẩn gây bệnh, kháng côn trùng phá hoại, chống chịu chất diệt cỏ, sản suất Vitamin A từ đó
- Tăng sản lượng
- Giảm chi phí sản xuất
- Tăng lợi nhuận nông nghiệp
- Cải thiên môi trường
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm có những nguy c ơ tiềm ẩn trong việc phát triển k ĩ thuật mới.Bao g ồm:
- Mối nguy hiểm trong việc vô tình đưa những chất gây dị ứng hoặc làm giảm chất dinh dưỡng vào lúa
- Sâu bệnh có nguy cơ tăng cường tính kháng với các chất độc tiết ra từ cây chuyển gen
- Nguy cơ những chất độc này tác động đến các sinh vật không phải là loại sinh vật cần diệt, vì thế có thể làm mất cân bằng sinh thái
Các bước cơ bản của chuyển gen
- Xác định gien liên quan đến tính trạng cần quan tâm
- Phân lập gen (PCR hoặc sàn lọc từ thư viện cDNA hoặc từ thư viện genomic DNA)
- Gắn gien vào vecto biểu hiện (expression vector) để biến nạp
- Biến nạp vào E.coli.
- Tách chiết DNA plasmid
- Biến nạp vào mô hoặc tế bào cây lúa bằng một trong những phương pháp khác nhau đã kể ở trên
- Chọn lọc các cá thể biến nạp trên môi trường chọn lọc
- Tái sinh cây biến nạp
- Phân tích để xác nhận các cá thể chuyển gien (PCR hoặc Southern blot) và đánh giá mức độ biểu hiện của chúng (Northern blot, Western blot, ELISA hoặc các thử nghiệm IN VIVO khác)
b/ Công nghệ lai tạo gíông lúa
Cây lúa (Oryza sativa L.) là cây lương thực lâu đời nhất, phổ biến nhất. Trên thế giới, về mặt diện tích gieo trồng, lúa đứng thứ hai sau lúa mì; về tổng sản lượng, lúa đứng thứ ba sau lúa mì và ngô. Lúa được trồng ở 112 nước, là lương thực của hơn 54% dân số thế giới. Ở một số nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêsia, Nhật Bản, Việt Nam....lúa là cây lương thực chính [2]. Về giá trị kinh tế, lúa gạo là mặt hàng xuất khẩu của một số nước, do lúa gạo là cây lương thực có giá trị dinh dưỡng cao [5]. Những năm gần đây, sản xuất lúa gạo ở nước ta đã có những bước phát triển đáng kể và đang hướng tới nền sản xuất hàng hóa. Mặt khác do đời sống của người dân không ngừng được cải thiện, nên từ nhu cầu đủ no đã và đang tiến tới nhu cầu ăn ngon. Vì vậy, nhu cầu về gạo đặc sản có chất lượng cao cũng không ngừng tăng nhanh. Đột biến thực nghiệm là một trong những phương pháp mang lại hiệu quả trong việc cải tiến các giống cũ và tạo ra những giống cây trồng mới. Tuy nhiên cũng cần thiết phải xác định, so sánh các chỉ tiêu sinh trưởng và phẩm chất hạt gạo của các giống và dòng lúa đột biến với con lai của chúng. Về phương diện sản xuất, từ những nghiên cứu trên có thể phát hiện ra các tổ hợp lai thích hợp giữa các giống và dòng lúa đột biến nghiên cứu để góp phần làm cơ sở chọn tạo ra các giống lúa vừa có năng suất cao, ổn định, vừa có phẩm chất gạo ngon
Lúa lai được gieo trồng ở Việt Nam từ năm 1991. Hiện nay, diện tích lúa lai là hơn 600.000 ha hằng năm với năng suất trung bình từ 6-6,3 tấn/ha, cao hơn lúa thuần từ 15-20%. Việc sử dụng lúa lai đã góp phần nâng cao năng suất, sản lượng lúa và tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân thông qua việc sản xuất hạt lai. C ác vi ện Nghien c ứu đ ã lai t ạo ra nh ững gi ống l úa m ớI cho n ăng su ất cao, ph ẩm ch ất t ốt, khang ch ịu đ ư ợc s âu b ệnh, th ích nghi v ớI đi ều ki ện kh í h ậu Vi ệt Nam nh ư: OM 4498, OM 5930, OM 2008, OM5239………….
Nhờ công nghệ hiện đại trong lai tạo chúng ta đã cho ra một số giống lúa mới với năng suất và phẩm chất cao
Giống lúa mới: OM 4498
1. Đặc điểm
· Giống lúa OM 4498 được phát triển từ tổ hợp lai IR64/OMCS2000//IR64, quần thể BC2F2 được sử dụng để thực hiện bản đồ di truyền gen chống chịu mặn với sự có mặt của marker RM223 định vị trên nhiễm sắc thể số 8. Ứng dụng marker phân tử trong chọn tạo giống lúa đã được Viện lúa ĐBSCL thực hiện để chọn ra dòng OM 4498. Giống OM 4498 đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận tạm thời vào năm 2005.
· Thời gian sinh trưởng: 95-100 ngày. Chiều cao: 100-105cm. Thân rạ cứng. Khả năng đẻ nhánh khá. Trọng lượng 1000 hạt 25,8g. Chiều dài bông 26cm. Phản ứng với rầy nâu cấp 5 và đạo ôn cấp 3. Có khả năng chống chịu với bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Chỉ số thu hoạch HI = 0,58. năng suất đạt trung bình 5-7 tấn/ha. Năng suất cao nhất: 8 t/ha.
· Khả năng sống sót ở giai đoạn mạ trong điều kiện bị stress do mặn ở EC=12dS/m là 28 ngày. Khả năng chống chịu độ độc nhôm được đánh giá bằng chỉ số RRL là 0,85. Như vậy đây là giống có khả năng thích nghi cho vùng khó khăn như phèn mặn.
· Giống lúa OM 4498 có lượng phytate thấp trong hạt gạo, giúp cho việc hấp thu sắt trong dinh dưỡng hàng ngày của người dân tốt hơn.
· Dạng hình cây lúa được đánh giá tốt trong nhiều lần thăm dò ý kiến của nông dân và cán bộ khuyến nông qua 6 vụ khảo nghiệm (2004-2006).
2. Phẩm chất
· Dài hạt gạo: 7,3mm. Tỉ lệ D/R: 3,1. Tỉ lệ gạo nguyên: 52,4%
· Hàm lượng amylsoe: 24,3%. Độ trở hồ cấp 3. Độ bền thể gel: 43,3mm
Giống lúa sản xuất thử
* OM 5930
1. Đặc điểm
· Giống lúa OM 5930 do Viện lúa ĐBSCL tạo chọn, có nguồn gốc từ biến dị tế bào soma từ giống OM 3536-12, thông qua phân tích và đánh giá dòng triển vọng được chọn bằng marker sau đó được khảo nghiệm chính quy.
· Thời gian sinh trưởng: 95-100 ngày. Chiều cao cây: 105-110cm. Thân rạ cứng. Khả năng đẻ nhánh khá. Trọng lượng 1000 hạt: 25,8g.
· Phản ứng với rầy nâu, đạo ôn cấp 3 và bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá cấp1.
· Chỉ số thu hoạch HI = 0,59. Năng suất trung bình là 6,8 tấn/ha trong vụ Đông Xuân và 4,5 tấn/ha trong vụ Hè Thu. Năng suất cao nhất đạt 7,5 tấn /ha. Thích hợp phát triển ở vùng thâm canh và cả vùng khó khăn như: Kiên Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Bến Tre. Thích nghi trồng