Nam Cao là một nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam. Ông chính là người hoàn thiện cho bức tranh hiện thực phê phán của văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Sáng tác của Nam Cao là những tiếng thở dài day dứt, dằn vặt, những cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội của tầng lớp trí thức hay tiếng kêu đau khổ, chua chát, tuyệt vọng của người nông dân dưới chế độ cũ. Ngòi bút tỉnh táo, sắc lạnh của ông khiến người ta liên tưởng tới giọng văn của Lỗ Tấn.
Nam Cao cũng là một trong số ít những nhà văn xây dựng được cho mình một phong cách nghệ thuật đặc sắc với những tác phẩm để đời như: Chí Phèo, Sống mòn, Đôi mắt .Có thể nói, cả Nam Cao và tác phẩm của ông đều thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu xoay quanh vấn đề Nam Cao và các tác phẩm của ông nhưng lại chủ yếu là về mặt nội dung và phong cách nghệ thuật. Trong bài viết này người viết muốn tiếp cận các tác phẩm của ông dưới góc nhìn của Ngôn ngữ học.
29 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 5585 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nam Cao là một nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam. Ông chính là người hoàn thiện cho bức tranh hiện thực phê phán của văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Sáng tác của Nam Cao là những tiếng thở dài day dứt, dằn vặt, những cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội của tầng lớp trí thức hay tiếng kêu đau khổ, chua chát, tuyệt vọng của người nông dân dưới chế độ cũ. Ngòi bút tỉnh táo, sắc lạnh của ông khiến người ta liên tưởng tới giọng văn của Lỗ Tấn.
Nam Cao cũng là một trong số ít những nhà văn xây dựng được cho mình một phong cách nghệ thuật đặc sắc với những tác phẩm để đời như: Chí Phèo, Sống mòn, Đôi mắt….Có thể nói, cả Nam Cao và tác phẩm của ông đều thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu xoay quanh vấn đề Nam Cao và các tác phẩm của ông nhưng lại chủ yếu là về mặt nội dung và phong cách nghệ thuật. Trong bài viết này người viết muốn tiếp cận các tác phẩm của ông dưới góc nhìn của Ngôn ngữ học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề trong các tác phẩm của Nam Cao là rất nhiều nhưng bài viết này chỉ tập trung tìm hiểu về đại từ nhân xưng.
Trong khuôn khổ của một niên luận, chúng tôi chỉ lựa chọn 4 tác phẩm trước cách mạng của ông làm tư liệu khảo sát, đó là : Nghèo, Chí Phèo, Lão Hạc, và Những chuyện không muốn viết.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện niên luận này chúng tôi nhằm mục đích khảo sát và phân loại hệ thống đại từ nhân xưng trong tác phẩm của Nam Cao, đồng thời, tìm hiểu cách sử dụng cũng như giá trị nghệ thuật trong ấy để khẳng định một lần nữa những đóng góp to lớn của ông về nghệ thuật ngôn từ trong văn xuôi.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích
PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát về đại từ và đại từ nhân xưng trong tiếng Việt
1.1. Đại từ trong tiếng Việt
1.1.1. Một số quan niệm về đại từ trong tiếng Việt
Đại từ là một từ loại được nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm và đã được nhiều sách Ngữ pháp tiếng Việt thống nhất đặt tên. Ngôn ngữ học N.V. Stankêvich đã nhận xét: “đại từ là một nhóm rất quan trọng ở trong ngôn ngữ, và thường là một nhóm từ ít có hiện tượng vay mượn từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Vì vậy đem hệ thống đại từ ra so sánh là một hiện tượng rất thú vị và rất có ý nghĩa về mặt loại hình học” ( tiếng Việt hiện đại Nguyễn Văn Thành, 2003). Việc tìm hiểu, so sánh hệ thống đại từ luôn nảy sinh nhiều vấn đề đặc biệt là trong tiếng Việt. Cũng chính N.V. Stankêvich nhận xét: “ở ngữ pháp tiêng Việt trước nay các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến rất khác nhau khi quan niệm thế nào là đại từ và khi phân loại đại từ thành các nhóm nhỏ. Điều này đã tạo ra sự rắc rối về thuật ngữ.”
Trong cuốn ngữ pháp tiếng Việt ( Nxb Từ điển Bách khoa, 2001, tr 150), Nguyễn Hữu Quỳnh quan niệm: “ đại từ là những từ dùng để chỉ sự vật, để xưng hô, để thay thế cho danh từ, động từ, tính từ và cụm từ trong câu.”
Các tác giả cuốn Việt Nam văn phạm ( 1940) lại định nghĩa “đại danh tự là tiếng dùng thay danh tự”
Tác giả Nguyễn Lân trong Ngữ pháp tiếng Việt lớp 7, 1955 quan niệm “ đại từ là thứ từ dùng thay thế cho một danh từ để khỏi nhắc lại danh từ ấy và để câu được gọn gàng”
Để tiện cho việc khảo sát và nghiên cứu, chúng tôi xin đồng ý với định nghĩa về đại từ của tiến sĩ Nguyễn Văn Thành trong cuốn Tiếng việt hiện đại (Nxb Khxh 2003)
“Đại từ là những từ dùng để chỉ người, chỉ vật,chỉ ngôi thứ thay cho các danh từ cụ thể và để chỉ định xác định các danh từ, các đại từ nhân xưng làm cho chúng có tính xác định rõ ràng”
Đại từ chỉ người, chỉ vật chỉ ngôi trong tiếng Việt rất phong phú về sắc thái tu từ ngay cả trong trường hợp dùng riêng. Bên cạnh đó, tiếng Việt còn có một hệ thống đại từ lâm thời mượn danh từ như: anh, em , ông , bà, chú , bác, cha, mẹ…cho nên việc chuyển đổi các ngôi càng phức tạp. Theo Nguyễn Văn Thành “bên cạnh việc tách riêng các đại từ thay thế danh từ và phân loại ngữ nghĩa đại từ như phân loại các từ loại khác, còn phải áp dụng khái niệm phạm trù ngữ pháp hiện đại, để xác định các hệ hình đối lập, diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp đối lập về ngôi thứ, về số ít, số nhiều và nêu rõ quy luật chuyển đổi hay thay thế của chúng”. Ông còn phân loại đại từ thành các loại:
+ Đại từ chỉ người và chỉ vật: bao gồm các đại từ: ai, kẻ, người, người ta, gì, cái gì.
+ Đại từ nhân xưng bao gồm: tao, tôi, chúng tao, chúng tôi (ngôi thứ nhất), mày, chúng mày (ngôi thứ hai), nó, họ, chúng nó (ngôi thứ ba). Và trong Tiếng Việt còn một loạt các danh từ được sử dụng chuyển loại thành đại từ nhân xưng như: bố, mẹ, con, anh, chị, em…
+ Đại từ chỉ định bao gồm: này, kia, nọ, đấy, nay, ấy, đây, làm sao, thế nào, ra sao, đó nào…,
+ Đại từ xác định bao gồm: cả, tất cả, mọi, từng, mỗi, ai đó, cái gì, suốt, thâu…
+ Đại từ không xác định bao gồm: bất kì, ai đó, cái gì đó.
+ Đại từ nghi vấn bao gồm: ai, cái gì, thế nào, ra sao, này, kia
+ đại từ phản thân: mình
+ Đại từ tương hỗ phản thân: nhau
Việc sử dụng các đại từ trong Tiếng Việt khá phức tạp để diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa tu từ. Cho nên, việc tách riêng phạm vi hoạt động của đại từ sẽ giúp cho việc sử dụng đại từ được nhất quán và chặt chẽ.
1.1.2. Vị trí của đại từ trong hệ thống từ loại Tiếng Việt
Đại từ là một từ loại đặc thù. Nó không điển hình cho thực từ cũng không giống như những hư từ khác. Đánh giá về vị trí của đại từ trong hệ thống từ loại tiếng Việt, cũng có nhiều ý kiến khác nhau,có thể quy về hai hướng: hướng thứ nhất coi đại từ thuộc nhóm thực từ, trong đó có người nhấn mạnh vào nét đặc thù của đại từ so với các từ loại khác. Trong tác phẩm Từ loại tiếng Việt hiện đại, tác giả Lê Biên cho rằng: “đại từ có đặc tính của thực từ nhưng nó không phải la thực từ đích thực mà chỉ có tính chất thực từ”; hướng thứ hai không xếp vào thực từ cũng không xếp vào hư từ. Trong sách Ngữ pháp tiếng Việt (NXB ĐHQG, 2001) tác giả Đinh Văn Đức viết: “đại từ không được xếp vào thực từ cũng không được xếp vào hư từ mà thường có vị trí trung gian riêng biệt trong quan hệ với thực từ và hư từ trong hệ thông từ loại”.
Trong cuốn Bài tập ngữ pháp tiếng Việt (NXB GD- 2002) tác giả Đỗ Thị Kim Liên đã nhấn mạnh chức năng của đại từ: “đại từ không như các danh từ, động từ, tính từ mang nghĩa thực xác định mà đại từ chỉ xuất hiện với chức năng thay thế, nghĩa là nó phải tồn tại nhờ vào các danh từ, động từ, tính từ (hoặc cụm động từ, cụm danh từ, cụm tính từ). Chính vì chức năng đó nên đại từ không thể mở đầu câu của văn bản, nhưng vì cái mà đại từ thay thế đều là giá trị thực nên chúng tôi xếp vào nhóm thực từ. Ngoài ra, đại từ đều có hai khả năng điển hình của danh từ, động từ, tính từ là khả năng làm trung tâm cụm từ và khả năng làm thành phần chính của câu”. Có thể nói quan niệm của Đỗ Thị Kim Liên đã tổng kết được các quan niệm của các nhà Ngôn ngữ học trước đó và đưa ra một quan niệm hợp với thực tế của tiếng Việt
1.2. Đại từ nhân xưng trong tiếng Việt
Đại từ nhân xưng là những từ dùng để thay thế cho người nói như: tôi, tao, chúng tôi, chúng ta, mày, chúng mày…hoặc để chỉ người và vật được nói đến như: nó, họ, hắn, y, thị…
Tìm hiểu về đại từ nhân xưng trong tiếng Việt, tác giả Phạm Thành đã có bài viết Đại từ nhân xưng tiếng Việt đối với người nước ngoài đăng trên tạp chí Khoa học Đại học tổng hợp Hà Nội, số 1/1987. Theo bà, hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Việt bao gồm 2 lớp: lớp đại từ thực thụ và lớp đại từ lâm thời. Số đại từ thực thụ chỉ gồm có 12 đại từ sau: tôi, tao, tớ, mày, nó, chúng tôi, chúng ta, chúng mình, chúng mày, chúng nó, họ, chúng tao. Các đại từ lâm thời trong tiếng Việt được mượn từ các danh từ chỉ người, mà trước hết là các danh từ chỉ quan hệ thân thuộc như: ông, bà, chú, bác, bố, mẹ, anh, chị…Chính các đại từ lâm thời này đã khiến cho hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng Việt cực kì phong phú cả về số lượng lẫn chất lượng (40 từ). Các đại từ nhân xưng tiếng Việt diễn đạt các ý nghĩa biểu cảm và tu từ tinh tế, mang sắc thái khác nhau. Do đó khi xem xét chúng ta cần phải căn cứ vào ngữ cảnh cụ thể. Trong bài viết tác giả Phạm Thành cũng đã nêu ra nguyên nhân của sự biến đổi từ danh từ sang đại từ nhân xưng trong tiếng Việt. Theo bà, ác danh từ chỉ quan hệ thân tộc được sử như các đại từ nhân xưng là do tiếng Việt không biến hình, từ trong tiếng Việt dễ dàng chuyển hoá từ loại. Bên cạnh đó còn một nguyên nhân nữa thuộc về xã hội đó là sự phân biệt thứ bậc rõ ràng trong quan hệ gia đình, mang tính độc lập giữa thế hệ bậc trên và thế hệ bậc dưới
Ví dụ: cha, mẹ anh,chị ông, bà, chú, bác, cô, dì…
Con em cháu
Người Việt Nam lại rất coi trọng cách xưng hô theo quan hệ đó. Điều đó đặt ra cho hệ thống đại từ nhân xưng thêm chức năng biểu đạt cách xưng hô ấy. Vì vậy hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Việt phải mượn thêm một loạt các danh từ chỉ quan hệ thân tộc.
Nếu như các đại từ thực thụ chịu sự ràng buộc vốn có của hệ thống (mỗi từ chỉ hoạt động hạn chế trong pham vi một ngôi) thì các đại từ lâm thời lại hoàn toàn khác. Chúng có thể hoạt động ở cả ba ngôi.
Ví dụ: Trong giao tiếp người Việt có thể nói:
- Mẹ tặng con món quà này.
Mẹ: ngôi thứ nhất
Con: ngôi thứ hai
Hoặc cũng có thể nói:
- Con cảm ơn mẹ!
Con: ngôi thứ nhất
Mẹ: ngôi thứ hai
Hoặc:
Con ra gọi mẹ vào ăn cơm đi.
Mẹ: ngôi thứ ba
Con: ngôi thứ hai
Khả năng có thể hoạt động ở cả ba ngôi như vậy khiến cho việc xác định ngôi của các đại từ lâm thời hoàn toàn phụ thuộc vào ngữ cảnh.
Đầu tiên, các đại từ lâm thời được sử dụng trong gia đình nhằm phân biệt thứ bậc rõ ràng. Sau đó trong giao tiếp thường nhật, những người không có quan hệ thân thuộc muốn tạo ra sự gần gũi thân thiết cũng sử dụng hệ thống đại từ này. Vì vậy, với các mức độ khác nhau, đại từ lâm thời trong tiếng Việt được sử dụng phổ biến. Ngoài xã hội nguyên tắc tôn trọng thứ bậc trong xưng hô mờ dần, thay vào đó là những quy ước xã giao phụ thuộc vào các điều kiện tâm lý xã hội: tuổi tác, địa vị, nghề nghiệp, thái độ tình cảm… Điều này tạo ra sự đối lập giữa cặp xưng hô có sự tương ứng nghiêm ngặt giữa cặp xưng hô có sự tương ứng không nghiêm ngặt.
Ví dụ: Về tương ứng nghiêm ngặt như: Con – Cha, mẹ
Em – anh, chị
Cháu – ông, bà, chú , bác, cô, cậu…
Về sự tương ứng không nghiêm ngặt: Tôi – anh, chị
Em – bác
Tôi – ông, bà
Trong xã hội cũ, sự phân biệt đẳng cấp rất rõ rệt cho nên việc xưng hô cũng tuân theo nguyên tắc rõ ràng: “xưng phải khiêm, hô phải tôn”. Người nói khi xưng mình phải nhún xuống, còn khi gọi người khác phải tôn lên. Đặc biệt với những người ở địa vị thấp, nguyên tắc này càng rõ rệt. Họ phải nhún mình xuống hạng “con, cháu” và gọi những người có địa vị là “ông, bà, cụ”.
Ví dụ: Lạy cụ ạ! Bẩm cụ… con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ
(Chí Phèo – Nam Cao)
Do đại từ nhân xưng lâm thời được mượn từ các danh từ chỉ quan hệ thân tộc và chịu tác động của các yếu tố xã hội, yếu tố tâm lý nên chúng luôn biến động. Theo lịch sử và theo thói quen giao tiếp có nhiều đại từ dần ít được sử dụng như: nàng, thiếp, chàng… và cũng có những đại từ mới nảy sinh như: đồng chí, bạn… Bên cạnh làm phong phú hệ thống đại từ nhân xưng, các đại từ lâm thời còn khiến cho sắc thái, phong cách của hệ thống này trở nên phức tạp. Điều này gây khó khăn cho những người học tiếng Việt do phải lựa chọn đại từ trong từng hoàn cảnh giao tiếp.
Hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Việt mang đặc trưng về sắc thái biểu cảm. Mỗi đại từ dù thuộc lớp đại từ thực thụ hay lớp đại từ lâm thời, dù ở chức năng xưng hô hay ở chức năng thay thế đều mang một sắc thái biểu cảm nhất định. Vì vậy việc lựa chọn đại từ nhân xưng trong giao tiếp của người Việt cũng là một yêu cầu rất quan trọng. Và như tác giả Phạm Thành viết: “sắc thái biểu cảm của câu nói thể hiện trong cách sử dụng đại từ nhân xưng, cho nên có thể nói đại từ nhân xưng tiếng Việt mang ý nghĩa giao tế rộng lớn. Sự phong phú về số lượng và sức biểu cảm mạnh mẽ của chúng thể hiện cách ứng xử tế nhị, muôn màu muôn vẻ của con người Việt Nam.
2. Vài nét về tác giả, tác phẩm Nam Cao
2.1. Tác giả Nam Cao
Nam Cao tên là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915 ở làng Đại Hoàng, Lý Nhân, Hà Nam. Làng Đại Hoàng nằm trong vùng chiêm trũng, nông dân quanh năm nghèo đói, lại bị cường hào ức hiếp, đục khoét tàn tệ.
Gần gũi với nông dân cùng với kinh nghiệm long đong lận đận của một trí thức nghèo đã khiến Nam Cao thấu hiểu sâu sắc cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của người nông dân, tri thức trước cách mạng. Nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao hiện lên như những con người thật đang hoạt động, suy nghĩ, rên rỉ và gào thét trong cơn cùng quẫn, bế tắc. Các nhân vật ấy giao tiếp với nhau bằng thứ ngôn ngữ của đời thường và được tác giả gọi bằng những cái tên cũng rất dân dã. Viết về người nông dân xưa, bằng chất văn chân thật, mộc mạc, bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân, cho nên hệ thống đại từ nhân xưng trong văn Nam Cao cũng rất gần gũi, mang tính mộc mạc, suồng sã.
2.2. Sự nghiệp sáng tác
Nam Cao thực sự thành danh từ tác phẩm Chí Phèo (1941) nhưng trước đó, năm 1936 ông đã có sáng tác được đăng báo. Sự nghiệp sáng tác của ông có thể chia làm hai thời kì: trước và sau cách mạng.
Trước cách mạng sáng tác của Nam Cao tập trung chủ yếu vào hai đề tài: cuộc sống người trí thức nghèo và cuộc sống cùa người nông dân.
Sau cách mạng Nam Cao tự nguyện làm người tuyên truyền vô danh cho cách mạng. Các sáng tác của ông tập trung chủ yếu vào đề tài chiến tranh.
2.3. Đặc điểm nghệ thuật trong tác phẩm Nam Cao
Tuy là người giai đoạn sau nhưng Nam Cao đã tạo ra một hướng đi riêng, một phong cách đặc trưng cho sáng tác của mình. “Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa trĩu nặng suy tư và đằm thắm yêu thương”. Bên cạnh giọng kể lạnh lùng, hệ thống đại từ nhân xưng trong các tác phẩm được Nam Cao sử dụng cũng đã giúp ông đạt được mục đích. Ngoài ra, hệ thống đại từ nhân xưng còn góp phần làm cho các tác phẩm của Nam Cao “vừa hết sức chân thực vừa thấm đượm ý vị triết lý và trữ tình”.
3. Đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao
3.1. Khái quát về đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao
Ngôn ngữ là phương tiện phản ánh cuộc sống của văn chương đặc biệt là các tác phẩm tự sự. Từ ngôn ngữ nhà văn dựng nên cả thế giới những sự kiện, hiện tượng với những nhân vật mang tính cách con người trong xã hội thực. Trong thế giới ấy các nhân vật hoạt động, suy nghĩ và giao tiếp, và dù là độc thoại hay đối thoại, nhân vật phải xưng hô nghĩa là phải sử dụng đại từ nhân xưng. Ngoài ra một tác phẩm tự sự (bao gồm truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài) bao giờ cũng có một hình tượng người tường thuật, hoặc là hình tượng của tác giả nói, viết hoặc là hình tượng nhân vật kể chuyện. Các tác phẩm của Nam Cao cũng không là ngoại lệ. Trái lại, các sáng tác của Nam Cao là điển hình cho việc sử dụng một hệ thống đại từ nhân xưng cực kỳ phong phú, đa dạng với những sắc thái biểu đạt khác nhau.
Nam Cao là một nhà văn xuất sắc, ngôn ngữ Nam Cao “sống động, uyển chuyển, tinh tế rất gần gũi với lời ăn tiếng nói của quần chúng”. Nó phản ánh trực tiếp trạng thái ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại. Và điều này một phần có được là do nghệ thuật sử dụng linh hoạt, toàn diện hệ thống đại từ nhân xưng. Có thể nói ông là nhà văn bậc thầy trong lĩnh vực này. Sáng tác của Nam Cao trần thuật từ cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Dường như hệ thống đại từ nhân xưng của phương ngôn Bắc Bộ đã được thâu tóm trong tác phẩm của Nam Cao. Thế giới nhân vật trong văn Nam Cao rất đông đảo: những người nông dân dưói đáy xã hội, những quan lại bề trên chỉ chuyên bóc lột đè nén dân đen, những trí thức tiểu tư sản nghèo. Cho nên hệ thống đại từ nhân xưng trong tác phẩm của Nam Cao cũng rất phong phú. Trong phạm vi hẹp của một niên luận là cũng do hạn chế về trình độ chúng tôi chỉ khảo sát hệ thống đại từ nhân xưng trong bốn tác phẩm: Nghèo; Chí Phèo; Lão Hạc; Những chuyện không muốn viết.
Trong bốn tác phẩm chúng tôi đã thống kê được 49 đại từ nhân xưng với 1457 lần xuất hiện:
Ngôi thứ nhất xuất hiện 317 lần chiếm 21.77%
Ngôi thứ hai xuất hiện 133 lần chiếm 9.13%
Ngôi thứ ba xuất hiện 1006 lần chiếm 69.1%
3.2. Các tiểu loại đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao
2.2.1. Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất
2.2.1.1. Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít
Bao gồm các đại từ như: Tôi: xuất hiện 252 lần
Tao: xuất hiện 11 lần
Con: xuất hiện 8 lần
Ta: xuất hiện 11 lần
Bu: xuất hiện 6 lần
Thầy: xuất hiện 3 lần
Tớ: xuất hiện 1 lần
Cái thằng tôi nó: xuất hiện 1 lần
* Đại từ tôi
Đại từ Tôi trong các tác phẩm của Nam Cao phần lớn được dùng trần thuật toàn truyện. Có thể thấy các truyện được trần thuật từ ngôi thứ nhất với đại từ Tôi của Nam Cao thường là những câu chuyện có tính chất cá nhân, tâm tình, hồi tưỏng:
Tôi mời lão hút trước (Lão Hạc).
Chính tôi cũng đang trách tôi cái sự ấy (Những chuyện không muốn viết).
Vốn dĩ, đại từ Tôi chỉ người nói, thuộc văn phong ôn hoà. Nó được sử dụng khi phải báo cáo việc gì đó trước tập thể, đối thoại giữa nam nữ để thể hiện tính nghiêm túc của vấn đề, để giữ tư thế bình đẳng hay để nâng cao tư thế của mình.
Ngoài ra nó còn sử dụng trong văn phong trần thuật, tự sự thể hiện hành động, suy nghĩ, tình cảm của mình.
Nam Cao thường sử dụng đại từ tôi trong các sáng tác để bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của nhân vật – mà ở đó thấp thoáng bóng dáng của nhà văn, một người có điạ vị xã hội từ bấy giờ. Từ tôi cũng là cách xưng hô giữa nhà văn với độc giả.
* Đại từ tao
Đây là một đại từ độc đáo trong tiếng Việt và cũng đã được Nam Cao sử dụng triệt để. Đại từ tao trong tác phẩm Nam Cao được dùng với nhiều sắc thái tình cảm. Có khi nó thể hiện sự thân mật suồng sã. Cũng có thể đấy là lời nói của một kẻ vô học, xưng hô để xoá nhoà ranh giới tôn kính giữa kẻ trên người dưới trong địa vị xã hội:
Không được! ai cho tao lương thiện (Chí Phèo)
Đây là câu Chí Phèo nói với Bá Kiến trước khi vụ án mạng xảy ra. Trước đó hắn luôn gọi Bá Kiến là “cụ” và xưng “con”, nhưng lần này hắn lại xưng “tao”. Đó giống như tiếng nói đòi quyền bình đẳng, đòi quyền sống và đòi lương thiện. Đó cũng là tiếng nói chống lại chế độ, tiếng nói của những người cùng cực nhằm xoá bỏ ách thống trị, áp bức của tầng lớp địa chủ.
Bên cạnh đó, đại từ tao còn đước sử dụng với thái độ tức giận và khinh ghét đồng thời khẳng định vị thế bề trên của mình như lời bà Huyện nói với cái Gái con chị đĩ Chuột:
Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy! (Nghèo).
* Đại từ tớ
Đại từ tớ thuộc văn phong bình dân, được dùng trong xưng hô bạn bè, tỏ ý thân mật, nhưng Nam Cao lại sử dụng trong một lời tỏ tình của đôi trai gái đang yêu:
- Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui! (Chí Phèo)
Đó là câu nói phong tình của Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chỉ với đại từ tớ Nam Cao đã lột tả hết vẻ ngượng ngùng, gượng gạo và sự cố gắng của Chí Phèo . Và chỉ với từ tớ Nam Cao đã thay đổi hẳn Chí Phèo về mặt chất: từ một con quỷ dữ, một kẻ cướp giật, ăn vạ trở thành một con người hiền lành lương thiện, suồng sã, dễ gần.
* Các đại từ khác như: bu, thầy, con được dùng với tư cách đại từ nhân xưng ngôi thứ nhât số ít thể hiện nét văn hoá Bắc Bộ cũ trong văn Nam Cao . Đó là cách xưng hô quen thuộc của người nông dân xưa thể hiện quan hệ thứ bậc trong gia đình cũng là tình cảm thân thuộc, ruột thịt
* Đại từ ông
Đại từ ông, bên cạnh thể hiện quan hệ thứ bậc, còn thể hiện thái độ ngạo ngược
Ví dụ:
- Hôm nay ông không có tiền, nhà mày bán chịu cho ông một chai (Chí Phèo)
Với đại từ ông, Chí Phèo đã tự nâng mình lên địa vị cao hơn so với mụ hàng rượu. Trong câu nói ấy, dường như Chí Phèo muốn khẳng định vị thế của mình trong xã hội, cụ thể là làng Vũ Đại
Cũng có lúc đại từ ông được dùng trong lối xưng hô thân mật, gần gũi với người dưới của bề trên:
- Ông không cho giết…ông để cậu Vàng ông nuôi ( Lão Hạc )
Đặc biệt, trong tác phẩm của mình Nam Cao còn sử dụng một lối tự xưng rất lạ. Ông dùng cụm từ “ cái thằng tôi nó” để chỉ ngôi thứ nhất tự xưng về mình:
- Cái thằng tôi nó hèn thế đấy (Những chuyện không muốn