Năng lượng có vai trò đặc biệt quan trọng và tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của tất cả các nước trên thế giới. Điều này càng trở nên đúng hơn trong bối cảnh nguồn năng lượng trên thế giới đang ngày càng trở nên cạn kiệt và xuất hiện nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do sử dụng quá nhiều năng lượng. Mà hạn chế lớn nhất của việc sử dụng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch nói chung, than và dầu khí nói riêng là gây ra ô nhiễm môi trường do sự phát thải SO2, COx, NOx . Với ước tính 80% các phát thải CO2 do con người gây ra đều do sự đốt các nhiên liệu hóa thạch, sự sử dụng năng lượng của thế giới đã trở thành tiêu điểm của các cuộc thảo luận về thay đổi khí hậu toàn cầu. Dự báo, phát thải CO2 sẽ tăng từ 6,1 tỷ tấn carbon tương đương năm 1999 lên 7,9 tỷ tấn năm 2010; và 9,9 tỷ tấn năm 2020.
Hiện nay, nhiều ngành công nghiệp đang phải đối mặt với nguy cơ đói năng lượng. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do giá dầu mỏ trên thế giới leo thang đến mức kỷ lục. Những dự báo của các chuyên gia năng lượng cho thấy từ nay trở đi, loài người sẽ đối mặt với tình trạng thiếu hụt dầu lửa và tình trạng căng thẳng gay gắt sẽ diễn ra vào khoảng năm 2020, khi nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng trong khi các giếng dầu hiện có bắt đầu cạn. Dự báo giá dầu sẽ lên đến mức 380 USD/thùng vào thời kỳ đó.
Như vậy, vấn đề kinh tế năng lượng đang là vấn đề của toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới đang nỗ lực tìm kiếm những giải pháp tiết kiệm và những nguồn năng lượng mới. Đối với Việt Nam, vấn đề tiết kiệm năng lượng đang được xem xét và có thể sẽ được đặt lên hàng đầu trong những năm tới. Do đó, vấn đề cấp bách đặt ra cho các doanh nghiệp là làm thế nào để sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn năng lượng, giảm thiểu được lượng khí thải ra môi trường do đốt cháy nhiên liệu nhằm đảm bảo mục tiêu bảo vệ môi trường mà không ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được?
Với mong muốn áp dụng những kiến thức đã được học từ chuyên ngành Kinh tế quản lý Tài nguyên Môi trường và Đô thị để tìm hiểu sâu hơn vấn đề trên, cùng với quá trình tìm hiểu thực tế tại công ty Cao su Sao Vàng, tôi đã chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả thực hiện giải pháp thu hồi nhiệt thải trong chương trình Tiết kiệm năng lượng tại công ty Cao su Sao Vàng”.
71 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả thực hiện giải pháp thu hồi nhiệt thải trong chương trình Tiết kiệm năng lượng tại công ty Cao su Sao Vàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Năng lượng có vai trò đặc biệt quan trọng và tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của tất cả các nước trên thế giới. Điều này càng trở nên đúng hơn trong bối cảnh nguồn năng lượng trên thế giới đang ngày càng trở nên cạn kiệt và xuất hiện nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do sử dụng quá nhiều năng lượng. Mà hạn chế lớn nhất của việc sử dụng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch nói chung, than và dầu khí nói riêng là gây ra ô nhiễm môi trường do sự phát thải SO2, COx, NOx ... Với ước tính 80% các phát thải CO2 do con người gây ra đều do sự đốt các nhiên liệu hóa thạch, sự sử dụng năng lượng của thế giới đã trở thành tiêu điểm của các cuộc thảo luận về thay đổi khí hậu toàn cầu. Dự báo, phát thải CO2 sẽ tăng từ 6,1 tỷ tấn carbon tương đương năm 1999 lên 7,9 tỷ tấn năm 2010; và 9,9 tỷ tấn năm 2020.
Hiện nay, nhiều ngành công nghiệp đang phải đối mặt với nguy cơ đói năng lượng. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do giá dầu mỏ trên thế giới leo thang đến mức kỷ lục. Những dự báo của các chuyên gia năng lượng cho thấy từ nay trở đi, loài người sẽ đối mặt với tình trạng thiếu hụt dầu lửa và tình trạng căng thẳng gay gắt sẽ diễn ra vào khoảng năm 2020, khi nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng trong khi các giếng dầu hiện có bắt đầu cạn. Dự báo giá dầu sẽ lên đến mức 380 USD/thùng vào thời kỳ đó.
Như vậy, vấn đề kinh tế năng lượng đang là vấn đề của toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới đang nỗ lực tìm kiếm những giải pháp tiết kiệm và những nguồn năng lượng mới. Đối với Việt Nam, vấn đề tiết kiệm năng lượng đang được xem xét và có thể sẽ được đặt lên hàng đầu trong những năm tới. Do đó, vấn đề cấp bách đặt ra cho các doanh nghiệp là làm thế nào để sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn năng lượng, giảm thiểu được lượng khí thải ra môi trường do đốt cháy nhiên liệu nhằm đảm bảo mục tiêu bảo vệ môi trường mà không ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được?
Với mong muốn áp dụng những kiến thức đã được học từ chuyên ngành Kinh tế quản lý Tài nguyên Môi trường và Đô thị để tìm hiểu sâu hơn vấn đề trên, cùng với quá trình tìm hiểu thực tế tại công ty Cao su Sao Vàng, tôi đã chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả thực hiện giải pháp thu hồi nhiệt thải trong chương trình Tiết kiệm năng lượng tại công ty Cao su Sao Vàng”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nhằm đánh giá hiệu quả việc thực hiện giải pháp thu hồi nhiệt thải để chứng minh việc đầu tư vào những giải pháp có mục tiêu bảo vệ môi trường sẽ mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, không chỉ về mặt kinh tế mà còn thu được lợi ích xã hội – môi trường.
Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp thu hồi nhiệt thải từ nước xả lò hơi để gia nhiệt cho nước cấp đầu vào của lò hơi.
Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề đi sâu vào nghiên cứu quá trình sản xuất và các hoạt động liên quan đến việc thu hồi nhiệt thải tại công ty Cao su Sao Vàng. Thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến năm 2006.
Phương pháp nghiên cứu
Trong chuyên đề này tôi đã sử dụng phương pháp phân tích tài chính để đánh giá hiệu quả của giải pháp thu hồi nhiệt thải, đồng thời có sự bổ sung đầy đủ hơn về các chi phí - lợi ích môi trường. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp thu thập điều tra từ các nguồn khác, phỏng vấn trực tiếp, phương pháp phân tích tổng hợp
Nội dung chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương :
Chương I: Những vấn đề chung về tiết kiệm năng lượng và đánh giá hiệu quả dự án.
Chương II: Chương trình Tiết kiệm năng lượng tại công ty Cao su Sao Vàng
Chương III: Đánh giá hiệu quả thực hiện giải pháp thu hồi nhiệt thải tại công ty Cao su Sao Vàng.
Lời cảm ơn
Trong suốt quá trình thực tập cũng như thực hiện chuyên đề tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo chuyên ngành, các cán bộ của Trung tâm Năng suất Việt Nam. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới:
Tiến sĩ Lê Thu Hoa, Giảng viên khoa Kinh tế Quản lý Tài nguyên Môi trường và Đô thị (KT-QLTNMT&ĐT), giáo viên hướng dẫn.
Ông Lê Thắng, Phó giám đốc Trung tâm Năng suất Việt Nam, cán bộ hướng dẫn.
Thạc sĩ Lê Thị Thoa, cán bộ Trung tâm Năng suất Việt Nam (VPC)
KS. Trịnh Minh Thông, cán bộ Ban tiết kiệm năng lượng công ty Cao su Sao Vàng.
Và các thầy cô trong khoa KT-QLTNMT&ĐT cũng như các cán bộ ở VPC.
CHƯƠNG I :
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIẾT KIỆM NĂNG LƯỢNG VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ ÁN
TỔNG QUAN VỀ TIẾT KIỆM NĂNG LƯỢNG
Khái niệm về Năng lượng và Tiết kiệm năng lượng
Năng lượng là dạng vật chất có khả năng sinh công, bao gồm nguồn năng lượng sơ cấp như than, dầu, khí đốt và nguồn năng lượng thứ cấp là nhiệt năng và điện năng được sinh ra thông qua quá trình chuyển hoá năng lượng
Trong chu trình chuyển hoá lý tưởng thì năng lượng được bảo tồn, nghĩa là không có tổn thất trong tất cả các khâu chuyển hoá năng lượng. Tuy nhiên, trong thực tế bao giờ cũng xảy ra các tổn thất trong từng khâu chuyển hoá. Các biện pháp làm giảm tổn thất trong các quá trình chuyển hoá được gọi là tiết kiệm năng lượng. Tiết kiệm năng lượng là đảm bảo thoả mãn nhu cầu năng lượng của các quá trình sản xuất, dịch vụ và sinh hoạt với mức tiêu thụ năng lượng ít nhất và hiệu quả kinh tế cao nhất.
Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia, đồng thời giảm chi phí năng lượng, tăng khả năng cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hoá và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tiềm năng tiết kiệm năng lượng của một doanh nghiệp không chỉ được xác định bởi lượng tiêu thụ năng lượng mà cả hiệu quả kinh tế đạt được nhờ việc cải tiến bộ máy quản lý, thay thế hoặc hiện đại hoá máy móc thiết bị. Thông thường các biện pháp tiết kiệm năng lượng được thực hiện theo 3 mức đầu tư: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Đầu tư ngắn hạn là thực hiện các biện pháp chủ yếu như cải tiến chế độ quản lý năng lượng, tổ chức sản xuất hợp lý, sửa chữa nhỏ, cải thiện quy trình vận hành, bảo dưỡng, chuyển thiết bị phụ trợ sang chế độ kinh tế, chuyển máy biến áp non tải sang chế độ dự phòng nguội, hạn chế sử dụng điện năng để sưởi nóng, chèn kín cửa kính, kẽ hở cửa ra vào, hoàn thiện bảo ôn đường ống cung cấp nhiệt, rửa và làm sạch thiết bị thu nhiệt, cách nhiệt tốt tủ lạnh... Các biện pháp về tiết kiệm năng lượng với chi phí nhỏ chỉ chiếm dưới 5% tổng tiềm năng tiết kiệm năng lượng. Các biện pháp này được thực hiện trong thời gian khoảng 2 - 3 tháng.
Đầu tư trung hạn bao gồm cải tạo, nâng cấp hoặc đổi mới từng phần các thiết bị đang làm việc nhằm nâng cao hiệu quả năng lượng, như thay đổi bảo ôn, thu hồi nhiệt, thay thế các bộ phận đã cũ, thay thế các động cơ điện non tải và áp dụng bộ truyền động điều chỉnh kiểu tần số ở các công trình có phụ tải biến động... Các biện pháp chi phí trung bình cho công tác tiết kiệm năng lượng thường chiếm tới 15 - 20% tổng tiềm năng tiết kiệm năng lượng, thực hiện trong khoảng từ 1-2 năm và được hoàn vốn trong 3 năm. Để thực thi các biện pháp chi phí trung bình cần có kế hoạch chi tiết và lập các bản vẽ thi công.
Đầu tư dài hạn bao gồm nâng cấp thiết bị hoặc thay đổi công nghệ, thiết bị mới. Biện pháp này thường cần vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài nên các doanh nghiệp cần phải xem xét kỹ tính khả thi về kinh tế, các yếu tố về môi trường và an toàn sức khỏe nghề nghiệp. Các biện pháp chi phí lớn về tiết kiệm năng lượng về mặt lý thuyết mang lại tới 75% tiềm năng tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên chi phí cho các biện pháp đó là tương đối lớn và trong nhiều trường hợp, vượt quá chi phí xây dựng nhà máy, phân xưởng mới. Sở dĩ có tình trạng đó là vì trong ngành công nghiệp các biện pháp chi phí lớn về tiết kiệm năng lượng liên quan tới việc thay đổi công nghệ của sản xuất chính, đòi hỏi thay thế các thiết bị đắt tiền và chỉ có thể thực hiện khi cải tạo đầu tư mới xí nghiệp.
Các giải pháp Tiết kiệm năng lượng
Hiện nay, một số doanh nghiệp đã và đang thực hiện chương trình tiết kiệm và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng bằng các biện pháp chủ yếu sau:
Cải tiến, hợp lý hóa quá trình đốt nhiên liệu; gia nhiệt, làm lạnh và chuyển hóa nhiệt năng
Giảm tổn thất nhiệt
Giảm tổn thất điện năng trong quá trình truyền tải, phân phối và tiêu thụ điện năng
Thu hồi năng lượng của chu trình thải để sử dụng lại như thu hồi nhiệt từ khói thải để sấy sản phẩm hoặc phát điện
Giảm tiêu thụ năng lượng bằng cách sử dụng thiết bị hoặc công nghệ có hiệu suất cao như sử dụng đèn, động cơ, lò hơi... có hiệu suất cao, hoặc dùng công nghệ khô thay cho công nghệ ướt trong sản xuất xi măng...
Giảm tiêu thụ năng lượng nhờ hợp lý hóa quá trình sản xuất do đó nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng
Phát triển, sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo (mặt trời, gió, thủy triều, địa nhiệt...) để tiết kiệm các nguồn nhięn liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, khí đốt.
Các giải pháp Tiết kiệm năng lượng được áp dụng tại các doanh nghiệp đã và đang mang lại nhiều lợi ích như giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm và nâng cao được tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Bên cạnh đó, hoạt động này cũng sẽ giúp giảm được sự tiêu tốn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là giảm thiểu lượng phát thải khí nhà kính góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường
TÌNH HÌNH ÁP DỤNG TIẾT KIỆM NĂNG LƯỢNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM.
Tình hình áp dụng Tiết kiệm năng lượng trên thế giới
Những cuộc khủng hoảng năng lượng trong các thập kỷ qua đã chứng minh Năng lượng là một vấn đề quan trọng, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội của tất cả các nước trên thế giới.
Theo “Triển vọng năng lượng quốc tế 2002” (IEO 2002), tiêu thụ năng lượng của thế giới dự báo sẽ tăng 60% trong thời gian 21 năm, kể từ 1999 đến 2020 (thời kỳ dự báo). Đặc biệt, nhu cầu năng lượng của các nước đang phát triển ở châu Á và Trung Nam Mỹ, dự báo có thể sẽ tăng gấp hơn bốn lần trong thời gian từ 1999 tới 2020, chiếm khoảng một nửa tổng dự báo gia tăng tiêu thụ năng lượng của thế giới và khoảng 83% tổng gia tăng năng lượng của riêng thế giới đang phát triển. Giá dầu mỏ đang ngày càng tăng cao trong khi nhu cầu sử dụng nhiên liệu này của các quốc gia cũng không ngừng tăng lên, điều này đã gây sức ép buộc nhiều nước phải thực thi kế hoạch phát triển các nguồn năng lượng thay thế nhằm giảm sự phụ thuộc dầu mỏ, khí đốt; đồng thời thi hành các biện pháp nhằm tiết kiệm năng lượng.
Một trong số các nước tiết kiệm năng lượng nhất thế giới phải kể đến là Nhật Bản. Là nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tiêu thụ nhiều năng lượng, nhưng Nhật Bản hoàn toàn không có dầu mỏ và khí đốt. 96% năng lượng sử dụng trong nền kinh tế và phục vụ sinh hoạt hằng ngày ở Nhật Bản phải nhập khẩu. Việc phụ thuộc lớn nguồn năng lượng bên ngoài khiến cho nước này nhận thức được tầm quan trọng của tiết kiệm sử dụng năng lượng có hiệu quả cao.
Từ năm 1973 đến nay sản xuất công nghiệp của Nhật Bản tăng gần gấp ba lần, nhưng mức năng lượng sử dụng hầu như không đổi. Ðể sản xuất khối lượng sản phẩm công nghiệp bằng Nhật Bản, Trung Quốc phải sử dụng lượng năng lượng gấp 11,5 lần. Các nhà máy sản xuất giấy của Nhật Bản đầu tư cho những thùng kim loại có thể đốt nóng bằng giấy thải, củi và nhựa phế thải. Trong vòng hai năm, có tới một nửa sản lượng điện sử dụng trong các nhà máy giấy được sản xuất từ rác thải.
Tháng 3 năm 2005, chính phủ Nhật Bản đã phát động một chiến dịch trong toàn quốc nhằm thực hiện mục tiêu của Nghị định thư Kyoto về cắt giảm 6% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính mức của năm 1990 vào năm 2012. Trong lĩnh vực giao thông và sinh hoạt đời sống, nhu cầu sử dụng năng lượng cao hơn nhiều so với lĩnh vực công nghiệp. Ðể tiết kiệm và sử dụng năng lượng có hiệu quả, chính phủ Nhật Bản chủ trương tăng thuế nhiên liệu lên 1,25 USD một lít xăng, mức cao nhất trong một thập niên; đồng thời giảm thuế đối với ô tô cỡ nhỏ và loại xe mới có các bộ phận không đồng bộ nhưng tiết kiệm nhiên liệu, trên cơ sở kết hợp giữa một động cơ chạy xăng và một động cơ chạy điện. Việc bán loại xe này ở Nhật Bản đang tăng mạnh.
Nhật Bản cũng trợ cấp khoảng 1,3 tỷ USD để lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời cho 160 nghìn gia đình. Hiện nay việc cung cấp năng lượng mặt trời với chi phí cao hơn từ hai đến ba lần việc cung cấp điện năng cho các hộ gia đình. Nhưng các chủ sở hữu nhà cho rằng cùng với thời gian, nguồn năng lượng này sẽ trang trải những phí tổn về thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời. Chính phủ Nhật Bản muốn miễn thuế cho cố gắng phát triển nguồn năng lượng này; vạch kế hoạch tăng sản lượng năng lượng mặt trời lên 15 lần trong thập kỷ này. Với chủ trương tiết kiệm dầu mỏ phải bắt đầu từ mỗi gia đình, Nhật Bản chủ trương cắt giảm việc sử dụng năng lượng đối với bốn loại đồ dùng gia đình thông dụng. Chủ trương nói trên được các hãng sản xuất đồ dùng điện của Nhật Bản hưởng ứng, với việc sản xuất và bán ra các sản phẩm mới tiết kiệm năng lượng.
Ngoài Nhật Bản, các nước có nguồn năng lượng nội địa ít cũng thi hành chính sách tiết kiệm năng lượng. Tại Singapore, nơi máy điều hòa không khí chiếm tới 60% chi phí năng lượng của mỗi gia đình, một đạo luật mới được ban hành khuyến khích việc tiết kiệm năng lượng thông qua việc sử dụng kính cửa sổ phủ phản quang và kết nối hệ thống hạ nhiệt của ngôi nhà với hệ thống làm hạ nhiệt của hàng xóm, nơi nước được làm lạnh qua đêm.
Ở Hồng Công, ngày càng nhiều tòa nhà được lắp đặt hệ thống quạt "thông minh", trong đó máy tính giảm thiểu số lần dừng không cần thiết. Chính quyền Hồng Công cũng khuyến khích việc sản xuất và sử dụng loại ô-tô kết hợp động cơ chạy xăng với động cơ chạy điện.
Ðầu tháng sáu năm 2005, Trung Quốc đã thành lập Ban chỉ đạo năng lượng quốc gia do Thủ tướng Ôn Gia Bảo làm Trưởng ban. Hội nghị lần thứ nhất Ban chỉ đạo công tác năng lượng quốc gia xác định công tác năng lượng của Trung Quốc trong thời kỳ trước mắt bao gồm tăng cường nghiên cứu, hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển trung hạn và dài hạn năng lượng; phân phối hợp lý nguồn năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng mới và năng lượng có khả năng tái sinh, triệt để tiết kiệm năng lượng...
Chính phủ Pháp dự định hạn chế tốc độ xe cộ chạy trên đường cao tốc từ 130 km/h xuống 115 km/h, đồng thời hợp tác với các chuyên gia phát triển các chương trình mới về khai thác nguồn năng lượng "phi truyền thống". Tây Ban Nha đặt mục tiêu giảm tiêu thụ năng lượng 8,5% trong giai đoạn 2005-2007, khuyến khích người dân chuyển sang sử dụng các loại xe nhỏ nhằm giảm tiêu hao nhiên liệu. Philippin yêu cầu tất cả cơ quan giảm ít nhất 10% năng lượng tiêu thụ. Năm 2005 tổng chi phí nhập khẩu dầu của nước này tốn ít nhất 5,5 tỷ USD. Indonesia thì xem xét giảm trợ cấp giá nhiên liệu, hiện khoản tiền này ước khoảng 6,4 tỷ USD mỗi năm.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều quốc gia tăng cường phát triển những nguồn năng lượng có khả năng tái sinh như thuỷ năng, gió, ánh sáng mặt trời… Năm 2000, nước Đức đã ban bố Luật phát triển năng lượng có khả năng tái sinh. Theo luật này các công ty nghiên cứu phát triển nguồn năng lượng được chính phủ trợ cấp kinh phí làm cho việc nghiên cứu phát triển và sử dụng nhiều loại năng lượng có khả năng tái sinh ở Đức thu được kết quả nổi bật. Năm 2003, Đức đã hoàn thành kế hoạch phát điện bằng năng lượng mặt trời tại 100 nóc nhà và còn tăng cường các biện pháp khác để phát triển và đưa vào sử dụng nguồn năng lượng này. Hiện nay, Đức là nước đứng đầu thế giới sử dụng năng lượng gió. Sản lượng điện bằng sức gió của Đức chiếm khoảng một phần ba tổng sản lượng điện bằng sức gió của thế giới và 4% tổng sản lượng sản xuất ra trong nước. Đức đang đẩy mạnh phát triển công nghiệp điện bằng sức gió tại các khu vực ven biển.
Những dự báo của các chuyên gia năng lượng cho thấy từ nay trở đi, loài người sẽ đối mặt với tình trạng thiếu hụt dầu lửa và tình trạng căng thẳng gay gắt sẽ diễn ra vào khoảng năm 2020, khi nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng trong khi các giếng dầu hiện có bắt đầu cạn. Dự báo giá dầu sẽ lên đến mức 380 USD/thùng vào thời kỳ đó. Vì vậy nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra những chiến lược an ninh năng lượng dài hạn dựa trên những diễn biến mới nhất này và việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, tiết kiệm triệt để năng lượng là xu hướng tất yếu của cả loài người.
Tình hình áp dụng tiết kiệm năng lượng tại Việt Nam
Hiện nay, mức tiêu tốn năng lượng trên một đơn vị sản phẩm của doanh nghiệp ở Việt Nam là quá cao so với các nước trong khu vực. Cụ thể, cùng một đơn vị sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam phải tiêu tốn một lượng năng lượng bằng 1,5 ¸ 1,7 lần so với các doanh nghiệp Thái Lan, Malaysia. Bộ Công nghiệp đã khảo sát tại một số nhà máy sản xuất xi măng, thép, sành sứ, hàng tiêu dùng, kết quả cho thấy tiềm năng tiết kiệm năng lượng có thể đạt đến 20%. Nếu tính với mức sử dụng năng lượng trong công nghiệp chiếm khoảng 40% so với tổng nhu cầu năng lượng thương mại hiện nay (xấp xỉ 19 triệu tấn), số tiền tiết kiệm được có thể tới 13,5 nghìn tỷ đồng mỗi năm. Đây là một giá trị không nhỏ, chưa tính đến tiềm năng tiết kiệm trong sinh hoạt và dịch vụ.
Để đẩy mạnh việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, ngày 03/09/2003 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 102/2003/NĐ-CP về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong các ngành sản xuất và dân dụng. Ngày 1/7/2004, Bộ Công nghiệp đã ban hành Thông tư 01/2004/TT-BCN hướng dẫn sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đối với các cơ sở sản xuất.
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra ý kiến cho rằng số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng tăng ở Việt Nam đang tạo ra sức ép lớn đối với năng lực cung cấp năng lượng của quốc gia vốn đã phát huy hết công suất. Nếu năng lượng không được sử dụng một cách bền vững hơn thì có thể Việt Nam không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu về năng lượng của quốc gia. Vì vậy, ngày 21/10/2005, UNDP và Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt dự án "Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” nhằm giải quyết vấn đề trên. Dự án 5 năm này sẽ tiếp tục hỗ trợ khu vực doanh nghiệp trong việc tiết kiệm năng lượng và góp phần giảm thiểu sự phát thải khí CO2.
Có khoảng 500 doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc 5 lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng, kể cả ngành sản xuất gạch ngói và gốm sứ, sẽ tham gia tiến hành các biện pháp thí điểm do dự án hỗ trợ nhằm giảm mức tiêu thụ năng lượng thông qua các hoạt động đào tạo và dịch vụ về kỹ thuật. Một quỹ trị giá hơn 1,9 triệu USD sẽ được thiết lập để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với các nguồn vốn vay và tín dụng trong nước để phục vụ cho các dự án tiết kiệm năng lượng riêng của họ. Việc thực hiện thành công dự án này sẽ mang lại kết quả là tiết kiệm được một khoản năng lượng tổng cộng tương đương với 136 nghìn tấn dầu và giảm mức độ phát thải khí CO2 hàng năm là 962 nghìn tấn trong giai đoạn 2006 - 2010.
Bộ Công nghiệp đã có tờ trình Chính phủ đề nghị xây dựng Chương trình quốc gia về tiết kiệm năng lượng với một loạt các chính sách liên quan đến mọi bộ ngành. Các nội dung được đề cập đến là hình thành cuộc vận động toàn xã hội xây dựng tác phong sử dụng năng lượng theo hướng tiết kiệm và hiệu quả; đưa các nội dung của chương trình vào hệ thống giáo dục quốc gia; phát triển và phổ biến các trang thiết bị hiệu suất cao, tiết kiệm năng lượng; hỗ trợ kỹ thuật cho các nhà chế tạo trong nước hiện đại hóa công nghệ, nâng cao tính năng của các thiết bị sử dụng năng lượng được sản xuất; xây dựng mô hình quản lý sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Theo kế hoạch, Việt Nam sẽ có Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Ban chỉ đạo quốc gia thực hiện Chương trình do một Phó thủ tướng đứng đầu sẽ được thành lập, cả nước sẽ có 8 trung tâm tiết kiệm năng lượng đặt tại 3 miền.
Bên cạnh các hình thức tuyên truyền, doanh nghiệp chế tạo, nhập khẩu sẽ được hưởng cơ chế ưu đãi để đưa ra thị trường các trang thiết bị hiệu suất cao; bắt đầu từ năm 2007 Bộ sẽ tổ chức dán nhãn tiết kiệm cho các loại thiết bị sử dụng năng lượng điển hình là quạt điện, động cơ điện, điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh.Nhà nước sẽ ban hành biểu giá năng lượng phù hợp với xu hướng của các nước trong khu vực nhằm khuyến khích người dân sử dụng tiết kiệm và hiệ