Liệt thần kinh VI cấp tính có đặc điểm là 71-80% hồi phục ngẫu nhiên trong 
vòng 6 tháng
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
. Trong khi chờ 
đợi thần kinh VI tự hồi phục. Bệnh nhân chịu đựng hai phiền phức là lé trong 
và song thị ngang. Scott v à Kraft
(Error! Reference source not found.)
cho rằng tiêm 
botulinum toxin A vào cơ trực trong cùng bên làm giảm co thắt cơ trực trong, 
và cho phép cơ trực ngoài phục hồi tốt hơn, đồng thời giải quyết được song thị 
tạm thời cho bệnh nhân. Trên thực tế những năm gần đâysố lượng người liệt 
th ần kinh VI ngày càng tăng do các nguyên nhân chấn thương, bệnh tiểu 
đường, cao huyết áp ngày càng tăng. Chúng tôi thấy cần có công trình nghiên 
cứu đầy đủ và hệ thống hơn về hiệu quả của botulinum toxin A trong điều trị 
liệt thần kinh VI cấp tính.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá kết quả tiêm Botulinum Toxin A điều trị song thị do liệt thần kinh vi cấp tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TIÊM BOTULINUM TOXIN A ĐIỀU TRỊ 
SONG THỊ DO LIỆT THẦN KINH VI CẤP TÍNH 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của Botulinum Toxin A đđiều trị song thị liệt 
thần kinh VI cấp tính và xác định các biến chứng gặp phải. 
Phương pháp: Nghiên cứu thực nghiệm không có nhóm chứng trên hàng loạt 
ca, gồm 39 mắt của 36 bệnh nhân liệt thần kinh VI cấp tính, tuổi từ 12 tuổi trở 
lên, tiêm botulinum toxin A vào vị trí cơ trực trong theo phương pháp tiêm 
dưới kết mạc không có hướng dẫn của điện cơ, sau đó theo dõi kết quả sau 1 
tuần, 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng. Xác định tỉ lệ thành công, ghi nhận tỉ lệ biến 
chứng. 
Kết quả: Tỉ lệ song thị giảm sau 1 tuần (khỏi song thị khi nhìn thẳng) 58,3% 
ca (56,4% mắt), sau 1 tháng 80,3% ca (76,9% mắt). Thời gian BTA bắt đầu có 
hiệu quả giảm song thị trung bình 2 tuần, trung vị 1 tuần. Tỉ lệ khỏi song thị sau 
6 tháng 86,1% ca (82,1% mắt). Thời gian gian BTA có hiệu quả cao nhất điều 
trị khỏi song thị trung bình là 3,5 tháng, trung vị 3 tháng. Tỉ lệ biến chứng: xuất 
huyết dưới kết mạc 12,8%, sụp mí 15,4%, lé đứng 10,25%, lé ngoài 2,6%. 
Kết luận: Tiêm BTA điều trị song thị tạm thời cho bệnh nhân bị liệt thần kinh 
VI cấp tính rất có hiệu quả, nhất là những trường hợp liệt có thời gian khởi phát 
đến khi tiêm từ 4 tuần trở lại. 
ABSTRACT 
AVALUATION THE EFFICACY OF BOTULINUM TOXIN A IN 
TREATMENT OF DIPLOPIA FROM ACUTE SIXTH NERVE PALSY 
Huynh Thi Ngoc Linh, Le Minh Thong 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 58 – 64 
Objective: To evaluate the efficacy of botulinum toxin A injection for diplopia 
due to acute sixth nerve palsy and determine complications of the procedure. 
Method: This prospective interventional study without control group included 
39 eyes of 36 acute sixth nerve palsy patients with over 12 years 
old.Subconjunctival injection of botulinum toxin at position of medial retus 
muscle without guiding of electromyography. Follow up data regarding 
diplopia, abduction deficit, angle of deviation were collected at interval 1 week, 
1month, 3 months, 6 months after injection of botulinum toxin. Determine the 
successful rate and complication rate of the procedure. 
Result: Prevalences of no diplopia in primary position recorded at one week, 
one month after injection of botulinum toxin are 58.3% cases (56.4% eyes) and 
80.3% cases (76.9% eyes). The mean time patients have no diplopia in primary 
position because of botulinum toxin effectiveness is 2 weeks (median 1 week). 
The rate of recovering diplopia at 6 months after injection of botulinum toxin is 
86.1% cases (82.1% eyes). The mean time botulinum toxin effects in 
recovering diplopia is 3.5 months (median 3 months). The rate of the 
complication of the procedure: subconcjunctival hemorrhage is 12.8%, ptosis is 
15.4%, vertical strabismus is 10.25%, extropia is 2.6%. 
Conclusion: Injection of botulinum toxin A in acute sixth nerve palsy is very 
beneficical and plays a useful role in the early management of diplopia in 
primary position. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Liệt thần kinh VI cấp tính có đặc điểm là 71-80% hồi phục ngẫu nhiên trong 
vòng 6 tháng(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Trong khi chờ 
đợi thần kinh VI tự hồi phục. Bệnh nhân chịu đựng hai phiền phức là lé trong 
và song thị ngang. Scott và Kraft(Error! Reference source not found.) cho rằng tiêm 
botulinum toxin A vào cơ trực trong cùng bên làm giảm co thắt cơ trực trong, 
và cho phép cơ trực ngoài phục hồi tốt hơn, đồng thời giải quyết được song thị 
tạm thời cho bệnh nhân. Trên thực tế những năm gần đây số lượng người liệt 
thần kinh VI ngày càng tăng do các nguyên nhân chấn thương, bệnh tiểu 
đường, cao huyết áp ngày càng tăng. Chúng tôi thấy cần có công trình nghiên 
cứu đầy đủ và hệ thống hơn về hiệu quả của botulinum toxin A trong điều trị 
liệt thần kinh VI cấp tính. 
PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỐI TƯỢNG 
Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm không có nhóm chứng trên hàng loạt ca. 
Đối tượng 
Bệnh nhân có chẩn đoán liệt dây thần kinh VI cấp tính đến khám và điều trị tại 
khoa Thẩm mỹ và thần kinh nhãn khoa - Bệnh viện Mắt TPHCM. Bệnh nhân 
đồng ý tiêm botulinum toxin A và theo dõi tại khoa. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh: 
- Bệnh nhân liệt dây thần kinh sọ VI cấp tính khởi phát trong vòng 3 tháng. 
- Tuổi => 12 tuổi (FDA). 
- Thị lực có chỉnh kính >1/10. 
- Có song thị. 
- Có lé trong đơn thuần > 10PD lăng kính. 
- Bệnh nhân đồng ý tiêm botulinum toxin A và theo dõi tại khoa. 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
- Liệt thần kinh sọ VI do nguyên nhân mạn tính gây ra chưa được giải quyết: 
như u não, ung thư vòm hầu, phình mạch, dò động mạch cảnh xoang hang. 
- Bệnh nhân có song thị nguyên nhân do do bệnh lý cơ hốc mắt tại chỗ bị hạn 
chế gây ra. 
- Bệnh nhân bị nhược cơ. 
Qui trình nghiên cứu: 
Qui trình nghiên cứu gồm các bước: khám chọn bệnh đủ tiêu chí đưa vào 
nghiên cứu, tiêm Botulinum Toxin A (BTA) dưới kết mạc, khám sau khi tiêm 
để đánh giá sự cải thiện của song thị, độ lé và hạn chế vận nhãn ở các thời điểm 
1 tuần, 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng và mức độ hài lòng của bệnh nhân. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 03/2007 đến tháng 03/2008, có 39 mắt của 36 trường hợp kiệt thần 
kinh VI tại bệnh viện Mắt TP.HCM đủ tiêu chuẩn được chọn vào nhóm nghiên 
cứu. 
Bảng 1. Mô tả đặc điểm liệt TK VI cấp tính. 
Đặc điểm 
nghiên cứu 
N/trung 
bình 
% P 
Tuổi 39,7± 15,7 
Nam 22 56,4 Phái 
Nữ 17 43,7 
0,42 
Mắt phải 22 51,3 Mắt bị 
bệnh 
Mắt trái 19 48,7 
0,87 
Chấn 
thương 
16 41 
Viêm 
nhiễm 
12 30,8 
Nguyên 
nhân 
Mạch 7 17,9 
0,034 
máu 
Không 
xác định 
4 10,3 
Thời gian khởi 
phát đến khi tiêm 
BTA 
Trung bình 
3,8 ± 3,16 
tuần 
độ 3 3 8,3 Mức độ 
song thị 
độ 4 33 91,7 
0,262 
Độ lé của liệt 
thần kinh VI cấp 
tính 
trung bình 
31 ± 10 PD 
Mức độ hạn chế 
vận nhãn 
trung bình 
 -3,7 ± 0,9 
Phân tích kết quả điều trị 
Thời điểm Botulinum toxin A bắt đầu có hiệu quả làm giảm song thị: Để 
xem xét thời gian bắt đầu tác dụng làm giảm song thị của BTA sau tiêm, 
chúng tôi sử dụng biểu đồ Kaplan Meier để tính. Qua biểu đồ 1, chúng tôi 
nhận thấy hiệu quả của BTA đối với song thị chủ yếu là ở thời điểm sau tiêm 
BTA 1 tuần và 1 tháng, ở thời điểm 3 tháng và 6 tháng mức độ giảm song thị 
tăng không đáng kể. Do đó, chúng tôi chỉ tính thời gian BTA bắt đầu có hiệu 
quả hiệu quả làm giảm song thị sau tiêm BTA 1 tháng. 
 Tỉ lệ giảm song thị (hết song thị khi nhìn thẳng). 
 Tỉ lệ còn song thị. 
 Đường biểu diễn diễn biến song thị trong vòng 6 tháng. 
Biểu đồ 1. Diễn biến song thị trong vòng 6 tháng sau tiêm BTA. 
Biểu đồ 2. Thời gian BTA có hiệu quả làm giảm song thị 4 tuần sau tiêm. 
Nhận xét: Thời gian thời gian BTA hiệu quả làm giảm song thị trung bình là 2 
tuần, trung vị là 1 tuần. 
Diễn biến độ lé theo thời gian 
Bảng 2. Độ lé (PD) trung bình tại các thời điểm theo dõi. 
 Trung 
bình 
Trung 
vị 
Trước khi tiêm BTA 31 ± 10,3 30 
Sau tiêm BTA 1 13,2 ± 10,2 10 
tuần 
Sau tiêm BTA 1 
tháng 
10 ± 9,4 8 
Sau tiêm BTA 3 
tháng 
7 ± 10 4 
Sau tiêm BTA 6 
tháng 
5 ± 10 0 
Biểu đồ 3. Diễn biến hạn chế vận nhãn theo thời gian. 
Thời điểm Botulinum toxin A bắt đầu có hiệu quả cao nhất điều trị khỏi song 
thị trong 6 tháng sau tiêm. 
Biểu đồ 4. Thời gian BTA có hiệu quả điều trị khỏi song thị 6 tháng sau tiêm. 
Nhận xét: thời gian BTA hiệu quả điều trị khỏi song thị sau 6 tháng là trung 
bình là 3,5 tháng, trung vị là 3 tháng. 
Biến chứng của tiêm BTA: 
Bảng 3. Biến chứng sau tiêm BTA. 
 N % 
Xuất huyết dưới kết mạc 5 12,8 
Sụp mi 6 15,4 
Lé trong 4 10,25 
Lé ngoài 1 2,6 
Thủng nhãn cầu 0 0 
BÀN LUẬN 
Phân tích đặc điểm của liệt thần kinh VI cấp tính 
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy liệt thần kinh VI ở mẫu nghiên cứu có tuổi 
trung bình là 39,7. Tỉ lệ giữa nam và nữ không khác nhau. 
Nguyên nhân gây liệt thần kinh VI cấp tính nhiều nhất là chấn thương chiếm đến 
41% mắt (có 2 trường hợp bị tổn thương TK VI cả hai mắt) và đặc biệt tất cả đều 
do tai nạn giao thông. Nguyên nhân chấn thương cao rất phù hợp với đặc điểm 
tình hình tai nạn giao đường bộ ở nước ta, và cũng trùng hợp với nhiều báo cáo 
trong nước. Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Chí Hưng (2007)(Error! Reference 
source not found.) tỉ lệ do chấn thương là 40,6 %. Trong khi đó theo nghiên cứu của 
tác giả Quah ở viện Mắt quốc gia Singapore nguyên nhân chấn thương chỉ có 
1/19 mắt (5,6%)(Error! Reference source not found.). Sau nguyên nhân chấn thương, nguyên 
nhân viêm nhiễm, có 12 trường hợp chiếm 30,8% mắt. Nguyên nhân tổn thương 
mạch máu cũng là nguyên nhân thường thấy trong liệt TK VI có 6 trường hợp 
chiếm 17,9% mắt (có 1 trường hợp bị tổn thương TK VI hai mắt). Có 4 trường 
hợp (10,3% mắt) không xác định được nguyên nhân mặc dù bệnh nhân có đủ các 
xét nghiệm.Những bệnh nhân này có đặc điểm là liệt TK VI đột ngột, không có 
triệu chứng khác đi kèm như nhức đầu chóng mặt,... 
Ở bảng 1 cho thấy thời gian khởi phát đến khi tiêm BTA trung bình là 3,8 tuần, 
trung vị 3 tuần. Đa số mắt bị liệt TK VI cấp tính có thời gian khởi phát đến khi 
tiêm TBA = 4 tuần gồm 32 mắt chiếm 82,1%..Những trường hợp đếm sớm 1 
đến 2 tuần đầu có tỉ lệ khỏi song thị 100%. Trong 5 bệnh nhân gồm 7 mắt 
không phục hồi được thần kinh VI, có 2 bệnh nhân đến điều trị sau khi bệnh 
khởi phát 12 tuần (3 mắt) và 1 bệnh nhân đến điều trị sau khi bệnh khởi phát 10 
tuần (2 mắt). Yếu tố thời gian từ khi khởi phát đến khi tiêm botulinum toxin A 
trong việc điều trị liệt thần kinh VI được tác giả Holmes(Error! Reference source not 
found.) kết luận là khó thành công và tỉ lệ trong nghiên cứu của ông chỉ 10% 
thành công bằng cách tiêm botulinum toxin A với những trường hợp liệt thần 
kinh VI trên 6 tháng. 
Dấu hiệu lâm sàng của liệt TK VI cấp tính có tính chất rõ ràng, và khá đặc 
trưng với các triệu chứng chính là song thị ngang, mắt lé vào trong, hạn chế vận 
nhãn cơ trực ngoài. Trong nghiên cứu này, 100% bệnh nhân có song thị, trong 
đó phần lớn là song thị độ 4 chiếm 91,7%, chỉ có 3 trường hợp song thị độ 3 
chiếm 8,3% (bảng 1). Độ lé trung bình của mẫu nghiên cứu là 31PD, trung vị 
30 PD, nhỏ nhất là 14 PD và lớn nhất là 50PD (bảng 1). Biểu đồ 2 cho thấy 
mức độ hạn chế vận nhãn trung bình là -3,7. Hoạt trường nhỏ nhất -5 chiếm 
15,6% và lớn nhất là -1 chiếm 5,1%. Liệt vận nhãn hoàn toàn có 59% mắt, liệt 
vận nhãn không hoàn toàn có 41% mắt. 
Phân tích diễn biến kết quả theo thời gian 
Sau tiêm BTA 1 tuần 
Qua biểu đồ 1 chúng tôi thấy tỉ lệ giảm song thị 1 tuần sau tiêm BTA là 58,3% 
(21/36 trường hợp), tức là tỉ lệ độ lé giảm bằng hoặc dưới 10PD sau tiêm BTA 
1 tuần là 56,4% (22/39 mắt). Đồng thời, độ lé trung bình cũng giảm đáng kể từ 
31PD xuống còn 13,2 PD sau khi tiêm thuốc 1 tuần, trung vị 10 PD (bảng 2) rất 
có ý nghĩa thống kê (p = 0,000). Kết quả này cũng phù hợp với các tác giả nước 
ngoài là tiêm botulinum toxin A có thể làm giảm độ lé xuống bằng hoặc dưới 
10PD chiếm tỉ lệ 33 - 60%(Error! Reference source not found.,2). Trong khi đó theo kết quả 
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Chí Hưng(Error! Reference source not found.), nhóm 
không được tiêm botulinum toxin A độ lé trung bình sau 1 tuần không thay đổi. 
Điều này rất có ý nghĩa đối với nghiên cứu của chúng tôi, vì mục tiêu chính 
trong nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá hiệu quả của botulinum toxin A đối 
với triệu chứng song thị. 
Qua biểu đồ 3 cho thấy sau 1 tuần hoạt trường trung bình của cơ trực ngoài 
tăng từ – 3,7 lên – 3,17. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,000). 
Hoạt trường cơ trực ngoài sau tiêm thuốc1 tuần tăng nhẹ cũng phù hợp với 
thực tế vì thuốc chỉ tác dụng làm liệt cơ trực trong, chủ yếu là giảm độ lé 
nguyên phát, làm bệnh nhân bớt đi hiện tượng nhìn thấy một hình thành hai 
hình. Đồng thời cơ trực trong bị liệt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ trực 
ngoài được hồi phục dễ dàng hơn. Vì tuần sau tiêm thuốc là thời gian không 
nhiều nên hoạt trường tăng cũng không nhiều. 
Sau tiêm BTA 1 tháng 
Một tháng sau khi tiêm thuốc, độ lé trung bình giảm còn 10 PD, trung vị 8 PD 
(bảng 2). Cặp độ lé trung bình sau tiêm 1 tuần và 1 tháng có sự khác biệt rất có 
ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy sau tiêm BTA 1 tháng hầu như số bệnh 
nhân trong mẫu nghiên cứu đã giải quyết được triệu chứng song thị khi nhìn 
thẳng. Thật vậy, sau tiêm BTA 1 tháng tỉ lệ giảm song thị tăng lên đến 80,3% 
trường hợp (biểu đồ 1), tương đương 76,9% mắt có độ lé giảm xuống bằng 
hoặc nhỏ hơn 10 PD. Có những bệnh nhân sau khi tiêm 1 tuần mức độ song thị 
giảm nhưng vẫn còn thấy hai hình, sau 1 tháng mặc dù độ lé vẫn còn nhưng 
bệnh nhân đã cảm thấy rất dễ chịu do triệu chứng song thị đã mất. Lý giải cho 
kết quả này là sau tiêm BTA 1 tháng, chỉ cần thần kinh VI có phục hồi được 
chức năng thêm một phần thì triệu chứng song thị khi nhìn thẳng có thể đã khỏi 
do tác dụng của thuốc vẫn còn làm liệt cơ trực trong, trong khi đó TK VI phục 
hồi được một phần làm cho cơ trực ngoài có thể co nhẹ lại một ít, kéo mắt nhẹ 
ra ngoài khiến cho tình trạng lé trong có độ lé trung bình vốn đã giảm đến 
13,2PD ở thời điểm sau khi tiêm BTA 1 tuần, trở nên nhỏ hơn hoặc bằng 10 
PD, giúp bệnh nhân khỏi song thị khi nhìn thẳng. 
Mức độ hạn chế vận nhãn của cơ trực ngoài sau 1 tháng bắt đầu tăng đáng kể lên 
-2,25. Sự khác biệt hoạt trường trung bình ở thời điểm 1 tuần và 1 tháng rất có ý 
nghĩa thống kê (p = 0,000). 
Thời gian Botulinum toxin A bắt đầu có hiệu quả làm giảm song thị 
Để xem xét thời gian bắt đầu tác dụng làm giảm song thị của BTA sau tiêm, 
chúng tôi sử dụng biểu đồ Kaplan Meier để tính. Ước lượng thời gian 
Botulinum toxin A bắt đầu có hiểu quả làm giảm song thị sau khi tiêm trung 
bình là 2 tuần, trung vị 1 tuần. Kết quả này cho thấy hiệu quả tuyệt vời của 
botulinum toxin A trong việc giải quyết được tạm thời triệu chứng song thị chỉ 
trong thời gian sớm. Giải quyết sớm được triệu chứng song thị gây khó chịu, 
làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đi lại, sinh hoạt, lao động hằng ngày của 
bệnh nhân là sớm đưa bệnh nhân về với cuộc sống bình thường, giúp bệnh 
nhân nâng cao chất lượng cuộc sống tốt hơn là chịu đựng sự khó chịu nếu 
không tiêm BTA để chờ cho thần kinh VI tự hồi phục. 
Sau tiêm BTA 3 tháng 
Ở thời điểm sau tiêm thuốc 3 tháng, độ lé trung bình là 7PD, tỉ lệ độ lé nhỏ hơn 
hay bằng 10 PD tăng lên 79,5% mắt, tỉ lệ song thị tăng lên 83,3% trường hợp. 
Độ lé trung bình sau ba tháng của nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu 
của tác giả Nguyễn Chí Hưng là 8PD(Error! Reference source not found.). 
Mức độ hạn chế vận nhãn của cơ trực ngoài sau 3 tháng cũng tăng mạnh, hoạt 
trường trung bình sau tiêm BTA 3 tháng là -1,25. Sự khác biệt hoạt trường 
trung bình ở thời điểm 1 tháng và 3 tháng rất có ý nghĩa thống kê (p = 0,000). 
Ba tháng là thời gian đủ để thần kinh VI tự hồi phục. Thời gian 3 tháng cũng 
là thời gian tác dụng của botulinum toxin A, cũng là thời gian cơ trực trong bị 
bất hoạt. Việc làm yếu cơ trực trong là cơ đối vận với cơ trực ngoài của thuốc 
lại có tác dụng gián tiếp đến sự phục hồi của cơ trực ngoài. Vì cơ trực trong 
yếu đi, sẽ tạo điều kiện tốt để cơ trực ngoài hồi phục chức năng dễ dàng hơn. 
Sau tiêm BTA 6 tháng 
Sau 6 tháng, độ lé trung giảm còn 4PD, trung vị ở vị trí 0 PD. Kết quả này cho 
thấy sau 6 tháng phần lớn bệnh nhân đã hết lé. Sự khác biệt về độ lé trung bình 
giữa thời điểm sau tiêm BTA 3 tháng và 6 tháng rất có ý nghĩa thống kê (p = 
0,001). 
Mức độ hạn chế vận nhãn trung bình sau 6 tháng còn – 0,64, so với thời điểm 3 
tháng, mức độ phục hồi cơ trực ngoài rất có ý nghĩa thống kê. 
Kết quả nghiên cứu điều trị song thị trên mẫu 39 mắt của 36 bệnh nhân bị liệt 
thần kinh VI cấp tính được điều trị bằng tiêm botulinum toxin A sau 6 tháng là 
86,1% trường hợp và tỉ lệ phục hồi thần kinh VI là 82,1% mắt. Kết quả này gần 
giống với kết quả của tác giả Nguyễn Chí Hưng(Error! Reference source not found.) về 
hiệu quả của BTA điều trị song thị là 80,5% mắt. So với tác giả nước ngoài, 
mẫu gần giống với nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu tác giả 
Chuenkongkaew, Thái Lan (2001)(Error! Reference source not found.) là 79% mắt. 
Phân tích thời điểm Botulinum toxin A có hiệu quả cao nhất điều trị khỏi 
song thị trong 6 tháng sau tiêm. 
Chúng tôi đánh giá thời gian BTA bắt đầu có hiệu quả cao nhất điều trị khỏi 
song thị trong 6 tháng sau tiêm BTA, cũng chính là thời gian thần kinh VI phục 
hồi. Qua biểu đồ 4, trong 6 tháng có 31/36 trường hợp hết song thị, tương 
đương 32/39 (82,1%) mắt có thần kinh VI được phục hồi hoàn toàn, vẫn còn 
13,9% mắt chưa khỏi. Ước lượng thời gian Botulinum toxin A có hiệu quả cao 
nhất điều trị khỏi song thị trung bình là 3,5 tháng, trung vị 3 tháng. Cũng có 
nghĩa là thời gian BTA điều trị khỏi liệt thần kinh VI cấp tính trung bình là 3,5 
tháng. Trong khi đó, thời gian tự hồi phục liệt thần kinh VI được đa số tác giả 
nước ngoài(Error! Reference source not found.) đã nhận xét là từ ba đến sáu tháng. Như 
vậy thời gian hồi phục của liệt thần kinh VI cấp tính có sự can thiệp của BTA 
cũng nằm trong khoảng thời gian hồi phục tự nhiên của thần kinh VI cấp tính, 
tuy nhiên ở thời điểm 3,5 tháng gần với mức thời gian tự hồi phục sớm (3 
tháng). Điều này cho thấy BTA chỉ đóng vai trò tạo điều kiện thuận lợi cho liệt 
thần kinh VI hồi phục nhanh hơn. 
Bàn luận biến chứng của tiêm botulinum toxin A 
Tác dụng phụ thường gặp nhất trong tiêm botulinum toxin A là sụp mí và lé 
đứng. Trong nghiên cứu của Lennerstrand báo cáo 1998(Error! Reference source not 
found.) có tỉ lệ sụp mi là 19%, và lé đứng 11% khi tiêm botulinum toxin trực tiếp 
vào cơ trực trong trong điều trị liệt thần kinh VI. Nghiên cứu của tác giả 
Nguyễn Chí Hưng(Error! Reference source not found.) cũng với liều 10 đơn vị Dysport 
tiêm trực tiếp vào cơ cũng có tỉ lệ biến chứng gần giống tỉ lệ của Lennerstrand: 
sụp mí 19,5% và lé đứng là 14,6%. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ sụp mí 
là 15,4%, lé đứng là 10,25%. Tỉ lệ biến chứng trong nghiên cứu của chúng tôi 
không khác nhiều với tỉ lệ biến chứng trong nghiên cứu của Lennerstrand. 
Trong nghiên cứu của tác giả Benabẹnt (2002), tiêm botulinum toxin dưới kết 
mạc không dùng máy điện cơ có tỉ lệ sụp mi 23% và lé đứng là 21%. Tuy nhiên 
liều tiêm vào vùng cơ trực trong lại là 7 đơn vị botulinum toxin tính theo Mỹ 
(Botox), gần gấp 3 liều tiêm trong nghiên cứu của chúng tôi. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi biến chứng sụp mi là 15,4%, trong đó 2 trường hợp sụp mi nhẹ 
và 3 trường hợp sụp mi mức độ trung bình. Biến chứng sụp khỏi sau đó 2 - 3 
tuần. Biến chứng lé đứng là 10,25 %. Đây là triệu chứng khiến bệnh nhân rất 
khó chịu, và thời gian khỏi lé đứng lâu hơn sụp mi. 
Biến chứng lé ngoài trong nghiên cứu của chúng tôi có 1 trường hợp, chiếm tỉ 
lệ 2,6%. Theo y văn thế giới, biến chứng này rất ít gặp. Trong các nghiên cứu 
khác, chúng tôi không thấy đề cập đến biến chứng này. 
Ngoài ra xuất huyết kết mạc tại chỗ chiếm 12,8% (5/39) mắt và không có vấn 
đề gì. Do kỹ thuật tiêm của chúng tôi không dùng kẹp để cặp cơ hay kết mạc, 
nên tỉ lệ xuất huyết dưới kết mạc không đáng kể, trong khi kỹ thuật bắt trực tiếp 
cơ trực trong của tác giả Nguyễn Chí Hưng(Error! Reference source not found.). Tỉ lệ xuất 
huyết dưới kết mạc là 17,1%. 
KẾT LUẬN 
Qua mẫu nghiên cứu 39 mắt liệt thần kinh VI cấp tính của 36 trường hợp. được 
tiêm botulinum toxin A (Dysport) dưới kết mạc ở vị trí của cơ trực trong, kết 
luận rút ra như sau. 
Đặc điểm của liệt thần kinh VI cấp tính 
Liệt thần kinh VI ở mẫu nghiên cứu tuổi trung bình 39,7. Nguyên nhân nhiều 
nhất là chấn thương chiếm 41%, kế đến là nguyên nhân do viêm nhiễm chiếm 
30,8%, nguyên nhân mạch máu chiếm 17,9%, sau cùng là nguyên nhân không 
xác định là 10,3%. 
Thời gian khởi phát đến khi tiêm BTA trung bình là 3,8 tuần. 100% bệnh nhân 
có song thị, trong đó phần lớn là song thị độ 4 chiếm 91,7%. Độ lé trung bình l