Ngày nay, khi mà mục tiêu của các quốc gia không chỉ dừng lại ở tăng trưởng kinh tế mà hướng tới phát triển bền vững thì vấn đề bảo vệ môi trường được đặt lên ngang hàng với tăng trưởng. Dù ở tầm vĩ mô như chiến lược, chính sách phát triển kinh tế hay ở tầm vi mô như dự án đầu tư, dự án kinh doanh thì việc cân nhắc và đánh giá ảnh hưởng, tác động của nó đến môi trường đều là cần thiết và vô cùng quan trọng.
24 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tác động môi trường của dự án kèm theo hồ sơ về dự án, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài:
Ngày nay, khi mà mục tiêu của các quốc gia không chỉ dừng lại ở tăng trưởng kinh tế mà hướng tới phát triển bền vững thì vấn đề bảo vệ môi trường được đặt lên ngang hàng với tăng trưởng. Dù ở tầm vĩ mô như chiến lược, chính sách phát triển kinh tế hay ở tầm vi mô như dự án đầu tư, dự án kinh doanh thì việc cân nhắc và đánh giá ảnh hưởng, tác động của nó đến môi trường đều là cần thiết và vô cùng quan trọng. Những dự án chỉ hướng tới lợi ích kinh tế mà bỏ qua các tác động môi trường không đem lại sự phát triển bền vững và lâu dài cho địa phương và quốc gia. Chính vì vậy, hiện nay, tại nhiều quốc gia trên thế giới đã có quy định bắt buộc về việc cung cấp tài liệu về đánh giá tác động môi trường của dự án kèm theo hồ sơ về dự án. Nhu cầu đánh giá tác động môi trường do đó cũng trở nên cần thiết hơn. Tác động môi trường thường rất phức tạp trong việc đánh giá. Vì tùy theo quan điểm của mỗi bên cũng như lợi ích về mặt môi trường họ nhận được mà họ coi đó là tác động tích cực hay tiêu cực. Bên cạnh đó, tác động môi trường thường không chỉ ảnh hưởng lên một mặt cuộc sống mà thường có tác động tổng hợp, đồng thời và lâu dài lên nhiều khía cạnh như sức khỏe, năng suất, tiện nghi,… Vì thế, để đánh giá chính xác được các tác động này thì các nhà nghiên cứu phải sử dụng một loạt các phương pháp đánh giá giá trị môi trường khác nhau. Hiện nay, trên thế giới hệ thống các phương pháp này vẫn đang được nghiên cứu, mở rộng và hoàn thiện. Một trong các phương pháp được nhiều nhà nghiên cứu ưa thích do phạm vi nghiên cứu linh hoạt của nó trong việc đánh giá nhiều loại tác động môi trường và giá trị môi trường là phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contigent valuation method) – CVM hay còn gọi là phương pháp phát biểu sự ưa thích. Nội dung chủ yếu của phương pháp này là thông qua việc sử dụng những cuộc điều tra và bảng hỏi để thu thập thông tin và thăm dò về mức giá sẵn lòng trả của các cá nhân cho những cải thiện môi trường. Những câu hỏi được đưa ra dựa trên những điều kiện thị trường mà người nghiên cứu nêu ra trong bảng hỏi. Do các câu trả lời là cơ sở của việc đánh giá giá trị môi trường nhưng lại hoàn toàn dựa trên các điều kiện giả định nên việc xây dựng bảng hỏi hợp lí, đảm bảo thu được thông tin chính xác và đáng tin cậy là yêu cầu hàng đầu khi sử dụng phương pháp CVM. Nghiên cứu việc vận dụng bảng hỏi trong phương pháp CVM vì thế có ý nghĩa trong việc xây dựng và hoàn thiện bảng hỏi, đáp ứng được yêu cầu của người nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích chủ yếu của đề tài là phân tích việc vận dụng bảng hỏi trong phương pháp CVM thông qua việc làm rõ các vấn đề sau:
Tìm hiểu sơ lược về phương pháp CVM, từ đó chỉ ra những yêu cầu về thông tin mà bảng hỏi cần thu được.
Nghiên cứu về bảng hỏi, thiết kế bảng hỏi và đặc điểm vận dụng bảng hỏi trong nghiên cứu CVM
Chỉ ra những ưu điểm và những tồn tại khi sử dụng bảng hỏi trong CVM và một vài gợi ý để khắc phục.
II. Vận dụng bảng hỏi trong phương pháp định giá ngẫu nhiên – CVM:
Phương pháp CVM:
Khái niệm CVM:
Việc đánh giá giá trị môi trường thường rất khó khăn và phức tạp. Điều này xuất phát từ đặc điểm mà các giá trị môi trường đem lại. Ngoài giá trị sử dụng của môi trường có thể dễ dàng tiến hành đo đạc, lượng hóa và đánh giá (như trữ lượng gỗ, trữ lượng cá,…) thì các giá trị khác mà môi trường đem lại thường rất khó đo lường, lượng hóa và đánh giá. Ví dụ như giá trị cảnh quan, lợi ích sinh thái, chất lượng môi trường nước, môi trường không khí,… Bên cạnh đó, một đặc điểm khác của những giá trị này khiến cho việc định giá càng khó khăn hơn. Đó là bản thân những lợi ích này không phải là hàng hóa, dịch vụ được trao đổi, mua bán trên thị trường như các loại hàng hóa, dịch vụ thông thường khác. Việc không tồn tại thị trường, cung hay cầu của lợi ích môi trường khiến cho việc định giá hoàn toàn mang tính chủ quan chứ không phải do cơ chế thị trường, cung, cầu điều chỉnh và xác định. Vì vậy, nếu như với giá trị sử dụng của môi trường có thể dùng phương pháp quan sát đơn giản hành vi người tiêu dùng trên thị trường để xác định giá của giá trị sử dụng thì với những giá trị phi sử dụng khác cần phải tiếp cận bằng nhiều phương pháp phức tạp hơn như: suy luận từ hành vi của con người trên thị trường liên quan đến môi trường, quan sát những thay đổi môi trường và ước tính sự chênh lệch giá trị của tài sản môi trường do những thay đổi này gây ra,… Trong các phương pháp trên, CVM là phương pháp được nhiều nhà nghiên cứu ưa thích sử dụng. Phương pháp CVM được định nghĩa như sau:
“Phương pháp định giá ngẫu nhiên – CVM là phương pháp xác định giá trị kinh tế của các hàng hóa và dịch vụ không mua bán trên thị trường. Phương pháp này sử dụng bảng hỏi phỏng vấn để xác định giá trị của hàng hóa, dịch vụ không trao đổi và do đó không có giá trên thị trường” (Theo Katherine Bolt – Estimating the Cost of Environmental Degradation).
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là việc ước lượng các giá trị môi trường trực tiếp theo cách tiếp cận hành vi, dựa trên các câu trả lời và phản hồi của người được hỏi đối với những vấn đề liên quan đến chất lượng môi trường. Điều đáng chú ý ở đây là những câu hỏi này hoàn toàn dựa trên những giả định mà người nghiên cứu đưa ra về việc đóng góp, mức chi trả của người được hỏi cho các giá trị môi trường (vì bản thân các giá trị này không hề được đưa ra trao đổi, mua bán). Số liệu điều tra được về giá mà người được hỏi sẵn lòng trả cho các giá trị môi trường, các biện pháp cải thiện môi trường hoặc đền bù thiệt hại môi trường sẽ là cơ sở để đánh giá giá trị môi trường. Tổng mức sẵn lòng chi trả này chính là giá trị của tài sản môi trường cần đánh giá.
Như vậy, thông qua việc tiếp cận hành vi của người trả lời dựa trên những câu hỏi giả định nêu ra trong bảng hỏi, người nghiên cứu thu được thông tin về “giá” của lợi ích môi trường.
Các bước tiến hành CVM:
Do thực tế các tác động môi trường thường xảy ra đồng thời và rất phức tạp, khó tách rời nên việc thăm dò, tiếp cận hành vi của người được hỏi phải được tiến hành qua nhiều bước, đảm bảo thu được những thông tin phản hồi chính xác về những tác động môi trường cần đánh giá. Thông thường, phương pháp CVM thường được tiến hành qua 4 bước sau đây:
Xác định và mô tả những đặc điểm chất lượng môi trường cần đánh giá
Xác định đối tượng điều tra, xác định mẫu và phương pháp chọn mẫu
Thiết kế bảng hỏi phỏng vấn và tiến hành điều tra bằng các phương pháp như phỏng vấn trực tiếp, phương pháp Anket, thảo luận nhóm.
Phân tích và tổng hợp kết quả (phân tích kinh tế lượng, phân tích lợi ích chi phí).
4 bước này liên quan đến một loạt các lý thuyết về kinh tế học môi trường, kinh tế lượng và thiết kế điều tra. Trên thực tế, CVM thường được tiến hành bởi những nhà nghiên cứu môi trường nên kĩ thuật về thiết kế bảng hỏi, thiết kế điều tra không được họ nghiên cứu nhiều. Trong khi đó, việc thiết kế bảng hỏi lại đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc mang lại thông tin đầy đủ và chính xác để định giá giá trị môi trường hợp lí. Chinh vì thế, bước thứ 3 cần phải được chú trọng xem xét trong quá trình tiến hành CVM.
Ưu điểm của phương pháp CVM:
Ưu điểm lớn nhất của CVM là có phạm vi ứng dụng rộng và linh họat. Do phương pháp CVM dựa trên giá sẵn lòng chi trả cho các giá trị môi trường của các cá nhân nên nó có thể áp dụng để định giá nhiều loại hàng hóa môi trường khác nhau cũng như những giá trị khác nhau của môi trường. Ví dụ như giá trị tồn tại của môi trường – được coi là một trong những yếu tố khó lượng hóa nhất như lợi ích sinh thái, chất lượng môi trường nước,… Những giá trị đôi khi được đánh giá rất cao nhưng thực tế lại không đòi hỏi người tham gia phỏng vấn phải trực tiếp hưởng thụ giá trị này. Do đó, việc điều tra được tiến hành dễ dàng và thuận tiện hơn, cũng như ít tốn kém hơn. Ví dụ như khi nghiên cứu giá trị môi trường của Nam Cực. Trên thực tế, giá trị môi trường của Nam Cực thường được trả rất cao nhưng rất ít người thực sự đến tham quan địa điểm này. Nếu sử dụng các phương pháp khác như TCM (phương pháp chi phí du lịch) đòi hỏi người được phỏng vấn phải là người đã đến Nam Cực và thực sự chi trả cho các chi phí du lịch ở đây thì chi phí tiến hành điều tra sẽ rất tốn kém. Nhưng nếu sử dụng phương pháp CVM, người nghiên cứu chỉ cần đưa ra các giả định và nhận được thông tin về giá sẵn sàng chi trả của người được phỏng vấn cho việc bảo vệ các giá trị của Nam Cực trong khi thực tế họ không cần phải đến tận Nam Cực.
Một ưu điểm khác nữa của CVM là nó không đòi hỏi một số lượng lớn thông tin như những phương pháp đánh giá môi trường khác.
Vì thế, trong các báo cáo đánh giá môi trường của các dự án, chính sách, CVM thường được sử dụng rộng rãi.
Vận dụng bảng hỏi trong nghiên cứu CVM:
Bảng hỏi:
“Bảng hỏi (hay còn gọi là phiếu điều tra) là hệ thống các câu hỏi được sắp xếp trên cơ sở các nguyên tắc, trình tự logic và theo nội dung nhất định nhằm giúp cho người điều tra có thể thu được thông tin về hiện tượng nghiên cứu một cách đầy đủ, đáp ứng mục tiêu nghiên cứu đã được thiết lập.” (Giáo trình Lý thuyết thống kê – 2006).
Đối với các cuộc điều tra nói chung, cho dù là điều tra nghiên cứu thị trường hay điều tra xã hội học thì bảng hỏi luôn là công cụ quan trọng nhất để thu thập thông tin. Bảng hỏi cũng là biểu hiện cụ thể nội dung nghiên cứu, là công cụ để người nghiên cứu truyền tải nội dung này đến người được hỏi và thu nhận những phản hồi từ họ. Vì vậy, chỉ cần nhìn vào bảng hỏi cũng có thể cho ta biết được những thông tin sơ lược nhất về cuộc điều tra như mục đích điều tra, chương trình, tổ chức điều tra,…
Đối với phương pháp định giá ngẫu nhiên CVM, bảng hỏi cũng có vai trò cầu nối giữa người nghiên cứu và người được hỏi. Đặc biệt, vai trò này càng quan trọng hơn khi đặc điểm của phương pháp này là thu thập thông tin dựa trên những giả định không có thật chỉ được nêu ra trong bảng hỏi. Bảng hỏi được thiết kế nhằm mục đích làm đối tượng điều tra suy nghĩ về các đặc điểm môi trường, từ đó phát biểu giá mà họ sẵn sàng trả tối đa cho các đặc điểm môi trường đó.
Thông thường, bản hỏi trong CVM gồm 3 phần quan trọng:
Các câu hỏi ngắn gọn và thích hợp nhằm thu thập thông tin cơ bản nhất về đối tượng điều tra. Ví dụ như tuổi tác, nghề nghiệp, nơi sinh sống, thu nhập, việc sử dụng, hưởng thụ các giá trị dịch vụ, hàng hóa môi trường liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Từ đó có thể xem xét những yếu tố như môi trường sống, trình độ học vấn, mức thu nhập,… có ảnh hưởng như thế nào tới các câu trả lời của họ.
Phần mô tả những đặc điểm môi trường có liên quan. Từ đó, đối tượng điều tra có hình dung về những giá trị môi trường mà họ đánh giá, từ đó đưa ra mức giá sẵn sàng chi trả phù hợp.
Phần câu hỏi được thiết kế để thu thập thông tin, phản hồi về giá sẵn lòng trả của đối tượng điều tra.
Thông qua bảng hỏi, người nghiên cứu phải nhận được đánh giá của đối tượng điều tra về đặc điểm môi trường đang nghiên cứu có giá trị như thế nào đối với họ. Điều này được thể hiện qua giá mà đối tượng điều tra sẵn lòng trả tối đa để được tiếp tục sử dụng tài sản môi trường này so với việc mà họ không được sử dụng nữa. Con số mà đối tượng điều tra đưa ra chính là giá trị lợi ích ròng của hàng hóa, dịch vụ môi trường đang cần đánh giá. Đây chính là cách thức để lượng hóa được giá trị tài sản môi trường – yếu tố vốn không có giá trị thị trường và không được trao đổi, mua bán. Có rất nhiều cách để thu được những phản hồi này. Trên bảng hỏi, các mức giá có thể được đưa ra trước và đề nghị đối tượng điều tra đánh dấu vào con số mà họ cho là thích hợp và sẵn sàng trả cao nhất hoặc để họ hoàn toàn tự trả giá.
Các loại câu hỏi được sử dụng trong nghiên cứu CVM:
Cũng như các cuộc điều tra khác, các loại câu hỏi được sử dụng trong nghiên cứu CVM cũng phân chia theo nhiều tiêu thức. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, đặc điểm thông tin mà người nghiên cứu muốn thu thập mà có thể sử dụng các loại câu hỏi cho phù hợp. Mỗi loại câu hỏi đều có tác dụng, ưu điểm riêng, nên để đạt hiệu quả cao nhất khi thu thập thông tin, người nghiên cứu nên sử dụng kết hợp linh hoạt, xen kẽ các loại câu hỏi trong bảng hỏi, thậm chí cho cùng một thông tin cần thu thập. Bằng việc sử dụng kết hợp các câu hỏi như vậy, người nghiên cứu có thể thu nhận được những thông tin chính xác, phù hợp và dễ lượng hóa khi tổng hợp.
Câu hỏi theo nội dung:
Câu hỏi theo nội dung thu thập thông tin về thực tế vấn đề môi trường mà câu hỏi này đề cập đến . Có thể phân biệt cụ thể hơn 3 nhóm câu hỏi theo nội dung:
Câu hỏi về sự kiện:
Câu hỏi sự kiện là câu hỏi về một sự kiện hiện thực nào đó đã và đang tồn tại trong không gian. Những câu hỏi này nhằm thu thập thông tin về vấn đề môi trường đã hoặc đang diễn ra hoặc chỉ đơn thuần là có hiểu biết về đối tượng điều tra.
Câu hỏi sự kiện thường được sử dụng phổ biến trong hầu hết các bảng hỏi, các phiếu điều tra do tính ứng dụng cao của nó. Nó mang lại thông tin về những sự kiện liên quan đến vấn đề điều tra từ đơn giản đến phức tạp. Đối với những sự kiện thông thường, câu hỏi sự kiện thường được sử dụng để bắt đầu hỏi trong phỏng vấn nhằm giúp người được hỏi quen dần với cuộc phỏng vấn. Hoặc khi đi chuyển sang một ý khác, câu hỏi sự kiện cũng được sử dụng để gợi mở, dẫn dắt tới vấn đề mới.
Các câu hỏi sự kiện thường dễ trả lời vì thế thông tin thu được từ câu hỏi có độ chính xác cao, thông thường có độ tin cậy cao nhất so với các loại câu hỏi khác. Tuy vậy, cũng cần chú ý rằng đối với những sự kiện đã xảy ra khá lâu trong quá khứ thì độ chính xác của câu hỏi cũng giảm xuống. Những câu hỏi khai thác cụ thể, chi tiết về sự kiện đã xảy ra (như ngày tháng năm xảy ra sự kiện, địa điểm xảy ra,…) cần kết hợp những câu hỏi sự kiện liền nhau để dần tái hiện về sự kiện này bằng cách hỏi về các sự kiện quá khứ nổi bật xảy ra gắn liền với sự kiện ta cần hỏi. Hoặc khi câu hỏi mang tính chất riêng tư, nhạy cảm, kín đáo thì cần đặc biệt chú ý tới cách diễn đạt tế nhị, gián tiếp, tránh gây bối rối, khó xử cho người được hỏi để thu được thông tin chính xác.
Ứng dụng trong CVM, các câu hỏi về sự kiện có thể được sử dụng trong phần đầu của bảng hỏi để thu thập thông tin về đối tượng điều tra như tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi ở, thu nhập,… Ngoài ra cũng có tác dụng dẫn dắt đối tượng vào vấn đề được hỏi bằng cách hỏi đối tượng điều tra về các sự kiện có liên quan tới vấn đề môi trường nghiên cứu.
Ví dụ như hỏi đối tượng về việc sử dụng các hàng hóa dịch vụ môi trường trước đây hoặc việc thay đổi về hiện trạng của hàng hóa dịch vụ môi trường đang/đã xảy ra, cách thức người được hỏi đối xử với hàng hóa môi trường,…
Câu hỏi về tri thức:
Sau khi thu được thông tin về sự kiện, người nghiên cứu có thể muốn tìm hiểu rõ hơn về nhận thức của người được hỏi về vấn đề này. Câu hỏi tri thức nhằm giúp người nghiên cứu thu được thông tin về mức độ hiểu biết, trình độ nhận thức của người được hỏi về vấn đề. Điều này là vô cùng cần thiết, đặc biệt là trong nghiên cứu CVM. Do đặc điểm của hàng hóa môi trường là việc phân định giữa ảnh hưởng tích cực và tiêu cực chỉ mang tính tương đối nên trình độ nhận thức của người được hỏi có ảnh hưởng rất quan trọng tới giá mà họ sẵn sàng chi trả cho hàng hóa môi trường này. Với những đối tượng điều tra có nhận thức cao về vấn đề môi trường, họ thường có nhận định, đánh giá chính xác hơn về giá trị của hàng hóa môi trường đang nghiên cứu. Ví dụ như một người có nhận thức về vấn đề cân bằng sinh thái sẽ đánh giá cao việc bảo vệ loài sếu đầu đỏ đang bị tuyệt chủng hơn là một người không có hiều biết về vấn đề này.
Khi sử dụng câu hỏi tri thức nên hạn chế việc dùng câu hỏi lưỡng cực: Có/Không, Đã biết/Chưa biết,… Do người được hỏi có thể bị ngộ nhận, ngại ngùng về mục đích sử dụng câu hỏi là để đánh giá nhận thức của họ nên họ có xu hướng chọn câu trả lời “Có” hoặc “Đã biết”,… làm sai lệch thông tin thu thập. Trong trường hợp này, nên sử dụng các câu hỏi phụ để kiểm tra thêm về mức độ hiểu biết thực sự của đối tượng về vấn đề đó như thế nào.
Câu hỏi về quan điểm, thái độ, động cơ:
Loại câu hỏi cuối cùng trong nhóm câu hỏi theo nội dung là câu hỏi về quan điểm, thái độ, động cơ. Có thể nói hai loại câu hỏi trên thường chỉ nhằm mục đích dẫn dắt đối tượng điều tra để thu được thông tin quan trọng nhất từ câu hỏi này. Câu hỏi này nhằm tìm hiểu quan điểm, sự đánh giá, mức độ quan tâm, phản ứng, thái độ, nguyên nhân và động cơ của đối tượng điều tra về sự kiện đang nghiên cứu.
Trên thực tế, những đánh giá, mong muốn mà đối tượng điều tra bộc lộ trong câu trả lời thường có tính ổn định thấp, dễ thay đổi, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội khách quan hay tâm lí, nhận thức chủ quan của đối tượng điều tra. Vì vậy, nếu như câu hỏi sự kiện thường cho câu trả lời có độ chính xác cao, ổn định, không thay đổi theo thời gian, từ cuộc điều tra này tới cuộc điều tra khác do nó gắn liền với hiện thực khách quan thì câu hỏi về quan điểm, thái độ, động cơ lại dễ thay đổi và thiếu chính xác. Tùy thuộc vào thời điểm điều tra mà câu trả lời này có thể biến động, nguồn dữ liệu từ câu hỏi này vì thế không thể sử dụng nhiều lần ở những cuộc điều tra khác nhau. Bên cạnh đó, khi sử dụng loại câu hỏi này về những vấn đề riêng tư, nhạy cảm biểu hiện lập trường quan điểm cá nhân thì còn cần chú ý đến việc diễn đạt tế nhị, khéo léo để người được hỏi dễ dàng hiểu câu hỏi và trả lời chính xác, đầy đủ.
Trong nghiên cứu CVM, đây chính là câu hỏi để thu được mức giá sẵn lòng trả của đối tượng điều tra về vấn đề môi trường đang nghiên cứu. Nói cách khác, đây chính là đánh giá về giá trị môi trường đối với người được hỏi. Từ đó, người nghiên cứu xác định được mức giá của hàng hóa, dịch vụ môi trường.
Ba loại câu hỏi theo nội dung có nhiệm vụ khác nhau trong việc thu thập thông tin nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, giúp người được hỏi dần dần làm quen với bảng hỏi và vấn đề nghiên cứu, mang lại những thông tin đầy đủ, chính xác và hoàn chỉnh. Trong nghiên cứu CVM, cần kết hợp linh hoạt 3 loại câu hỏi này do bản thân tính phức tạp của vấn đề môi trường và không phải lúc nào người được hỏi cũng đã biết và nhận thức về môi trường. Cần sử dụng câu hỏi sự kiện và câu hỏi tri thức để dẫn dắt, giúp người được hỏi có những ý niệm chung về vấn đề môi trường rồi từ đó mới tìm hiểu về đánh giá của họ về vấn đề này.
Câu hỏi theo chức năng:
Việc phân loại câu hỏi theo chức năng xuất phát từ yêu cầu về kĩ thuật điều tra. Khi thực hiện phỏng vấn, truyền tải thông tin, đặc biệt là khi phỏng vấn về những vấn đề nhạy cảm (trong CVM như đánh giá tác động chính sách môi trường, thái độ của người được hỏi về chính sách của cơ quan quản lí môi trường), độ chính xác của thông tin thấp thì việc sử dụng loại câu hỏi này rất quan trọng. Có thể phân biệt 3 loại câu hỏi chức năng: câu hỏi tâm lí, câu học lọc và câu hỏi kiểm tra.
Câu hỏi tâm lí:
Đây là thường là câu hỏi tiếp xúc ban đầu với người được hỏi, dùng để bắt đầu bảng hỏi. Chức năng chủ yếu của câu hỏi này là để gạt bỏ nghi ngờ có thể nảy sinh của người được hỏi, hoặc để chuyển tiếp giữa các chủ đề.
Để tiếp xúc, làm quen, các câu hỏi tâm lí được sử dụng thường là những câu hỏi đơn giản, dễ trả lời và mục đích không nhất thiết để thu thập thông tin. Chức năng chủ yếu của câu hỏi tâm lí chỉ là để làm quen, tạo sự thân thiện, thoải mái và lôi cuốn người được hỏi vào vấn đề nghiên cứu. Đối với nhiều người, vấn đề môi trường thường không phải là vấn đề được họ quan tâm. Bằng việc sử dụng câu hỏi tâm lí, người nghiên cứu có thể thu hút sự chú ý của người được hỏi để họ hợp tác nhiệt tình hơn, đưa lại thông tin cụ thể, chính xác hơn.
Để giảm bớt sự căng thẳng, đặc biệt là khi nội dung bảng hỏi có liên quan đến vấn đề chỉ đạo, chính sách,… nhạy cảm thì người nghiên cứu có thể đan cài những câu hỏi tâm lí về cuộc sống hàng ngày, những vấn đề đơn giản. Nội dung của những câu hỏi này có thể không liên quan tới vấn đề đang nghiên cứu mà chỉ giúp tạo bầu không khí thoải mái, sau đó sẽ trở lại với nội dung chính của bảng hỏi. Ví dụ như khi phỏng vấn về phản ứng của người dân về chủ trương cải tạo công viên Thống Nhất thành khu vui chơi hiện đại của Thành phố Hà Nội,