Nguồn lực con người là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của mối quốc gia. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển. Con người vừa là độnglực vừa là mục tiêu mà nếu thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sự phát triển. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi lợi thế sự phát triển đang chuyển dần từ yếu tố tài nguyên thiên nhiên dồi dào, giá nhân công rẻ song nguồn nhân lực ổn định và có chất lượng.
72 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1585 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Nguồn lực con người là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của mối quốc gia. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển. Con người vừa là độnglực vừa là mục tiêu mà nếu thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sự phát triển. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi lợi thế sự phát triển đang chuyển dần từ yếu tố tài nguyên thiên nhiên dồi dào, giá nhân công rẻ song nguồn nhân lực ổn định và có chất lượng.
Nước ta là nước kinh tế kém phát triển, các nguồn tài nguyên thiên nhiên không nhiều vì vậy Đảng ta xác định phải "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" với mục tiêu "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài" (Văn kiện đại hội VIII, Nxb chính trị Quốc gia). Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với đào tạo nghề là phải tạo ra được đội ngũ lao động kỹ thuật đủ về số lượng, mạnh về chất lượng.
Đối với Phú Thọ - một tỉnh miền núi mới tái lập - điểm xuất phát thấp, mạng lưới cơ sở dạy nghề còn yếu, chi ngân sách cho đào tạo nghề còn hạn chế. Do đó, nhiệm vụ đặt ra đối với đào tạo nghề cho người lao động càng khó khăn hơn. Để đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực , thực hiện được mục tiêu đào tạo nghề cần thiết phải có chiến lược phát triển đào tạo nghề gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thông qua "Tầm nhìn đến năm 2020 và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010" của tỉnh Phú Thọ.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu ở trường cùng với thời gian thực tập ở Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Phú Thọ em đã chọn đề tài: "Đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ" nhằm vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn phát triển công tác đào tạo nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nghề cho người lao động tỉnh phú thọ nói riêng.
*Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ thực trạng đào tạo nghể tên các mặt : quy mô đào tạo, cơ cấu đào tạo chất lượng đào tạo, tìm ra những bất cập hiện nay về đào tạo nghề tỉnh Phú Thọ.
- Đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm phát triển công tác đào tạo nghề cho người lao động tỉnh Phú thọ.
* Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Trên cơ sở đánh giá chung về tình hình kinh tế xã hội , lao động tỉnh Phú Thọ đề tài đi sâu nghiên cứu đào tạo nghề cho công nhân kỹ thuật và phổ cập nghề cho lao động nông thôn.
- Phạm vi nghiên cứu tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận và sự cần thiết dào tạo nghề ; phân tích đánh giá thực trạng đào tạo nghề trong những năm qua từ đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển công tác đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ.
* Phương pháp nghiên cứu: Thông qua các phương pháp thống kê, khảo sát, phân tích tổng hợp….để nghiên cứu đề tài.
* Kết cấu chuyên đề:
Phần I: Tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề
Phần II: Phân tích thực trạng đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ.
Phần III: Một số giải pháp nhằm phát triển công tác đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ.
Phần một
Tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề.
I. Một số khái niệm có liên quan về nghề và đào tạo nghề.
1. Nghề và trình độ lành nghề.
* Nghề là một hình thức phân công lao động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định.
*Trình độ lành nghề của lao động thể hiện một chất lượng của sức lao động. Nó thể hiện ở sự hiểu biết về lý thuyết, về kỹ thuật sản xuất và kỹ năng lao động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc một nghề, một chuyên môn nào đó.
Trình độ lành nghề liên quan chặt chẽ tới lao động phức tạp. Lao động có trình độ lành nghề là lao động có chất lượng cao hơn, là lao động phức tạp hơn. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động lành nghề thường tạo ra một giá trị lớn hơn so với lao động giản đơn.
Để đạt tới trình độ lành nghề nào đó, trước hết phải đào tạo nghề cho nguồn nhân lực, tức là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động để nắm vững một nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay học để làm nghề, chuyên môn khác.
2. Chuyên môn.
Chuyên môn là hình thức phân công lao động sâu sắc hơn do sự chia nhỏ của nghề. Do đó nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết và thói qyen thực hành trong phạm vi hẹp và sâu hơn.
3. Đào tạo nguồn nhân lực.
Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận một công việc nhất định. Hay đào tạo nguồn nhân lực là quá trình truyền đạt, lĩnh hội những kiến thức và kỹ năng cần thiết để người lao động có thể thực hiện một công việc nào đó trong tương lai.
Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các nội dung sau:
-Đào tạo kiến thức phổ thông (Giáo dục phổ thông).
-Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp (Giáo dục chuyên nghiệp). Đào tạo kiến thúc chuyên nghiệp được chia ra: Đào tạo cán bộ chuyên môn (Đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp) và đào tạo nghề (Đào tạo công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ, nhân viên bán hàng, phổ cập nghề cho ngưòi lao động).
Đào tạo cán bộ chuyên môn là việc đào tạo nguồn nhân lực ở các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ có trình độ học vấn cao, có khả năng lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo một chuyên môn, nghiệp vụ nào đó.
Căn cứ vào trình độ đào tạo, cán bộ chuyên môn được chia ra làm các loại sau :
-Cán bộ trung cấp : Là những người thực hành giúp việc cho công tác nghiên cứu .
-Cán bộ cao đẳng : Là những người được đào tạo tương đương trình độ Đại học xong nghiêng về khả năng thực hành.
-Cán bộ Đại học : Là những người được đào tạo trong các trường Đại học có khả năng nghiên cứu khoa học và vận dụng vào thực tiễn hoặc quản lý một lĩnh vực chuyên môn.
-Cán bộ trên Đại học : Là cán bộ có trình độ cao, có khả năng nghiên cứu khoa học và thực tiễn.
Việc đào tạo cán bộ chuyên môn được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau như :
- Đào tạo chính quy dài hạn.
- Đào tạo tại chức, chuyên tu.
- Đào tạo từ xa vv...
4.Đào tạo nghề.
Đào tạo nghề cho người lao động là quá trình giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động để họ nắm vững một nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay học để làm nghề chuyên môn khác.
Đào tạo nghề bao gồm đào tạo công nhân kỹ thuật (Công nhân cơ khí, xây dựng, điện tử, v.v...). Nhân viên nghiệp vụ (Nhân viên đánh máy, nhân viên lễ tân, nhân viên bán hàng v.v...). Phổ cập nghề cho người lao động (Chủ yếu là lao động nông nghiệp).
Việc đào tạo nghề được tiến hành ở các cơ sở đào tạo nghề đó là : Các trường chính quy của Nhà nước ; Các cơ sở đào tạo nghế của tư nhân ; các trung tâm dạy nghề của chính quyền địa phương, các cơ sở tổ chức xã hội ; Các cơ sở đào tạo nghề thông qua hợp tác quốc tế.
Phân loại đào tạo nghề.
*Căn cứ vào nghề đào tạo với người học :
-Đào tạo mới : Đây là hình thức đào tạo nghề áp dụng cho những người chưa có chuyên môn, chưa có nghề.
-Đào tạo lại : Là quá trình đào tạo nghề áp dụng cho những người đã có nghề, có chuyên môn song vì lý do nào đó nghề của họ không phù hợp nữa đòi hỏi phải chuyển sang nghề khác, chuyên môn khác .
-Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề : Là quá trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những công việc phức tạp hơn.
* Căn cứ vào thời gian đào tạo nghề :
-Đào tạo ngắn hạn : Thời gian đào tạo nghề dưới một năm, chủ yếu đối với phổ cập nghề.
-Đào tạo dài hạn : Thời gian đào tạo nghề từ một năm trở lên, chủ yếu đối với đào tạo công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ.
II. Nội dung công tác đào tạo nghề.
Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết này, ta chỉ xem xét nội dung đào tạo nghề ở khía cạnh : Đào tạo công nhân kỹ thuật, vì đây là mảng đào tạo mang tính chiến lược trong quá trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
1. Xác định nhu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật.
Xác định nhu cầu công nhân kỹ thuật là cơ sở để lập kế hoạch đào tạo. Xác định nhu cầu đào tạo không chính xác sẽ dẫn đến việc mất cân đối giữa yêu cầu và đào tạo, giữa đào tạo và sử dụng. Trong thực tiễn quản lý vẫn còn gặp tình trạng này. Do chưa xác định được nhu cầu công nhân kỹ thuật một cách chính xác, toàn diện nên cơ cấu đào tạo thiếu cân đối, không đồng bộ, một số nghề thiếu công nhân kỹ thuật một cách trầm trọng nhưng có nghề đào tạo ra lại không sử dụng hết, sử dụng không đúng nghề đào tạo.
Kế hoạch hoá nhu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật trong điều kiện hiện nay gặp nhiều khó khăn và khó chính xác. Để khắc phục việc này, việc xác định phải được bắt đầu từ doanh nghiệp, sau đó tổng hợp lại theo ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tài liệu tính toán nhu cầu là số lượng và cơ cấu thiết bị kỳ kế hoạch, kế hoạch năng suất lao động, lượng lao động hao phí để sản xuất sản phẩm ...
Việc xác định nhu cầu công nhân kỹ thuật trong doanh nghiệp có thể áp dụng công thức sau :
Nc = M / P.H
Trong đó :
Nc : Nhu cầu công nhân kỹ thuật của một nghề nào đó.
M : Khối lượng công việc (Tương ứng với nghề của công nhân).
P : Mức phục vụ .
Hoặc có thể căn cứ vào số máy móc, mức đảm nhận của công nhân và hệ số ca làm việc để xác định nhu cầu công nhân kỹ thuật theo công thức :
Nc = M / P.K
Trong đó :
M : Số máy móc thiết bị.
P : Số máy một công nhân phục vụ .
K : Số ca làm việc của máy móc thiết bị .
Trường hợp không có sẵn mức phục vụ, số lượng công nhân kỹ thuật theo từng nghề có thể tính theo công thức :
Nc = S1.Im.Ik / Iw
Trong đó :
Nc : Nhu cầu công nhân kỹ thuật của một nghề nào đó trong kỳ báo cáo.
S1 : Số công nhân thực tế của nghề nào đó trong doanh nghiệp ở kỳ báo cáo.
Im : Chỉ số số lượng thiết bị ở loại nào đó để hoàn thành kế hoạch sản xuất đã định kỳ kế hoạch.
Ik : Chỉ số ca làm việc bình quân của thiết bị kỳ kế hoạch.
Iw : Chỉ số năng suất lao động của công nhân kỹ thuật nghề đó kỳ kế hoạch.
Sau khi đã có nhu cầu công nhân kỹ thuật theo nghề, phải xác đinh nhu cầu bổ xung. Nó là hiệu số giữa nhu cầu cần thiết và công nhân hiện có từng nghề. Nhu cầu bổ xung chính là nhu cầu công nhân kỹ thuật cần phải đào tạo.
Tổng hợp nhu cầu bổ xung công nhân kỹ thuật của các doanh nghiệp sẽ được lượng đào tạo chung của ngành, tuỳ tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp hoặc của ngành mà tổ chức hình thức đào tạo nghề phù hợp.
2. Xác định các hình thức đào tạo.
Một trong những nhiệm vụ của kế hoạch đào tạo là xác định các hình thức đào tạo phù hợp. Thực chất là tính toán hiệu quả kinh tế của đào tạo, là so sánh giữa chi phí đào tạo với kết quả thu được sau khi đào tạo. đây là một vấn đề phức tạp, trong thực tế chưa có phương pháp tính thật chính xác. Hiện nay mới chỉ phân tích được những ưu điểm và nhược điểm của các hình thức đào tạo. Tuỳ theo yêu cầu và điều kiện thực tế, có thể áp dụng hình thức này hay hình thức khác. Những hình thức đang được áp dụng hiện nay là:
2-1.Đào tạo tại nơi làm việc.
Đào tạo công nhân tại nơi làm việc là đào tạo trực tiếp, chủ yếu là thực hành ngay trong quá trình sản xuất, do xí nghiệp tổ chức.
Đào tạo tại nơi làm việc được tiến hành dưới hai hình thức : Cá nhân và tổ đội sản xuất. Với hình thức đào tạo cá nhân, mỗi thợ học nghề được một công nhân có trình độ lành nghề cao hướng dẫn. Người hướng dẫn vừa sản xuất, vừa dạy nghề theo kế hoạch. Với hình thức đào tạo theo tổ đội sản xuất, thợ học nghề được tổ chức thành từng tổ và phân công cho những công nhân dạy nghề, thoát ly sản xuất, chuyên trách hướng dẫn.
Những công nhân dạy nghề phải có trình độ văn hoá, trình độ nghề nghiệp và có phương pháp sư phạm nhất định.
Quá trình đào tạo được tiến hành theo các bước :
-Phân công những công nhân có trình độ lành nghề cao, vừa sản xuất vừa hướng dẫn thợ học nghề. Trong bước này, người hướng dẫn vừa sản xuất, vừa giảng cho người học nghề về cấu tạo máy móc , nguyên tắc vận hành, quy trình công nghệ, phương pháp làm việc. Người học nhgề theo dõi quan sát những thao tác, động tác và phương pháp làm việc của người hướng dẫn. Cũng trong bước này, doanh nghiệp hoặc phân xưởng tổ chức dạy lý thuyết cho người học nghề do kỹ sư hoặc kỹ thuật viên phụ trách.
-Giáo viên làm thử cho học viên sau khi đã nắm được những nguyên tắc và phương pháp làm việc, ngưòi học việc tiến hành làm thử dưới sự kiểm tra uốn nắn của người hướng dẫn.
-Giao việc hoàn toàn cho người học nghề. Khi người học nghề có thể tiến hành công việc độc lập được, người hướng dẫn giao việc hẳn cho người học nghề nhưng vẫn phải theo dõi giúp đỡ thường xuyên.
Muốn cho hình thức này đạt hiệu quả tốt, việc kèm cặp trong sản xuất phải được tổ chức hợp lý, có chế độ đồng kèm cặp giữa người dạy và người học, giữa xí nghiệp và người dạy.
Hình thức đào tạo này có ưu điểm :
-Có khả năng đào tạo nhiều công nhân cùng một lúc ở tất cả các doanh nghiệp, phân xưởng. Thời gian đào tạo ngắn. Đây là biện pháp nhằm tái sản xuất sức lao động lành nghề với tốc độ nhanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu công nhân kỹ thuật cho thị trường lao động.
-Do đào tạo trực tiếp tại cơ sở sản xuất nên không đòi hỏi điều kiện về trường sở, giáo viên chuyên trách, bộ máy quản lý và thiết bị học tập riêng. Vì vậy doanh nghiệp cũng có thể tổ chức và tiết kiệm chi phí đào tạo.
Trong quá trình học tập, học viên còn được trực tiếp tham gia vào quá trình lao động, góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. Đồng thời, quá trình học tập gắn liền với quá trình sản xuất tạo điều kiện cho học viên nắm vững kỹ năng lao động.
Tuy nhiên hình thức này cũng tồn tại một số nhược điểm:
-Học viên nắm lý luận không phải từ thấp đến cao, theo trình tự khoá học, hệ thống.
-Thời gian đào tạo ngắn, chủ yếu vừa sản xuất vừa thực tập. Người dạy nghề không chuyên trách nên thiếu kinh nghiệm. Việc tổ chức lý thuyết còn nhiều khó khăn, do đó kết quả học tập còn hạn chế.
-Học viên không những chỉ học được phương pháp tiên tiến mà còn “bắt chước” cả những thói quen không hợp lý của người hướng dẫn. Vì vậy, hình thức đào tạo này chỉ thích hợp với những công việc không đòi hỏi trình độ lành nghề cao.
2-2.Các lớp cạnh doanh nghiệp .
Đối với nghề phức tạp, việc đào tạo trong sản xuất không đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức các lớp đào tạo riêng cho mình hoặc cho các doanh nghiệp cùng ngành. Hình thức đào tạo này không đòi hỏi phải có đây đủ cơ sở vật chất kỹ thuật riêng, không cần bộ máy chuyên trách mà dựa vào điều kiện sẵn có của doanh nghiệp . Chương trình đào tạo gồm hai phần :
-Phần lý thuyết được giảng dậy tập chung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách.
-Phần thực hành được tiến hành ở các phân xưởng thực tập và trong các phân xưởng do các kỹ sư, công nhân lành nghề hướng dẫn.
* Hình thức này có ưu điểm :
-Học viên học lý thuyết tương đối có hệ thống và được trực tiếp tham gia lao động ở các phân xưởng, tạo điều kiện cho họ nắm vững nghề. Hình thức này thích hợp với việc đào tạo những công nhân có trình độ lành nghề tương đối cao.
-Thời gian đào tạo dài, số lượng đào tạo tương đối lớn nên có khả năng giải quyết nhu cầu cấp bách về công nhân kỹ thuật.
-Bộ máy quản lý gọn nhẹ , chi phí đào tạo không lớn.
* Nhược điểm :
-Hình thức đào tạo này chỉ áp dụng được ở những doanh nghiệp tương đối lớn và chỉ đào tạo cho các doanh nghiệp cùng ngàng có tính chất giống nhau.
2-3. Đào tạo tại các trường chính quy.
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển trên cơ sở kỹ thuật hiện đại, Bộ hoặc các ngành cần tổ chức các trung tâm dạy nghề, các trường dạy nghề tập trung, quy mô tương đối lớn, đào tạo công nhân có trình độ lành nghề cao. Khi tổ chức các trường nghề cần phải có bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên chuyên trách và cơ sở vật chất riêng cho đào tạo. Để nâng cao chất lượng của công tác đào tạo nghề, các trường phải đảm bảo các điều kiện sau :
-Phải có kế hoạch và chương trình đào tạo. Đối với các nghề phổ biến chương trình phải do Bộ lao động - Thương binh - Xã hội và Bộ Giáo dục - đào tạo xây dựng ban hành. Chương trình đào tạo bao gồm hai phần : Lý thuyết và thực hành, không coi nhẹ phần nào.
-Phải có đội ngũ giáo viên dạy nghề có đủ khả năng kinh nghiệm, chuyên môn, giảng dạy.
-Phải được trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập, các phòng thí nghiệm xưởng trường. Những nơi có điều kiện nhà trường cần tổ chức các phân xưởng sản xuất, vừa phục vụ cho việc giảng dạy, vừa tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Đối với những trường hợp không có xưởng sản xuất riêng, nên để ở gần các doanh nghiệp lớn của ngành, tạo điều kiện cho giảng dạy và học tập được thuận lợi. Các tài liệu giảng dạy, giáo trình phải được biên soạn thống nhất cho các nghề các trường. Như vậy, muốn cho việc đào tạo có chất lượng phải đi từ những vấn đề cơ bản của công tác đào tạo nghề, như định rõ mục tiêu của mỗi trường lớp ; Tang cường máy móc trang thiết bị cho giảng dạy, học tập : Đào tạo đội ngũ giáo viên lý thuyết và thực hành cho các nghề : Ban hành những chế độ chính sách cần thiết như quy chế trường lớp, tiêu chuẩn giáo viên, tiêu chuẩn tuyển sinh vào các trường.
* Hình thức náy có ưu điểm :
-Học sinh được học một cách có hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành, tạo điều kiện tiếp thu kiến thức nhanh chóng, dễ dàng.
-Đào tạo tương đối toàn diện cả về lý thuyết lẫn thực hành, giúp học viên nắm được những kiến thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ. Với hình thức đào tạo này, khi ra trường, công nhân có thể chủ động, độc lập giải quyết công việc, có khả năng đảm nhận được những công việc tương đối phức tạp, có trình độ lành nghề cao. Đi đôi với việc phát triển của sản xuát và khoa học kỹ thuật, hình thức này ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo công nhân kỹ thuật.
* Nhược điểm :
-Đòi hỏi cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, có bộ máy quản lý đội ngũ giáo viên giảng dạy chuyên nghiệp nên chi phí đào tạo khá lớn.
-Thời gian đào tạo dài.
Kế hoạch giảng dạy công nhân kỹ thuật thường chia theo hai giai đoạn : Giai đoạn học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn. Các kế hoạch giảng dạy công nhân kỹ thuật trong giai đoạn học tập cơ bản không thay đổi nhiều và vì thế người ta gọi giai đoạn này là giai đoạn ổn định và thường chiếm 70% - 80% nội dung giảng dạy.
Trong giai đoạn cơ bản nghề được đào tạo theo diện rộng, không những nhằm trang bị cho người học những kiến thức kỹ thuật tổng hợp mà còn giúp họ hiểu được những nguyên lý chung nhất để làm việc sau này. Các chương trình kỹ thuật cơ bản để giảng dạy chung cho mọi người bao gồm : Vẽ kỹ thuật, công nghệ kim loại, kỹ thuật điện, thuỷ lực học ...
Trong giai đoạn học tập chuyên môn, người học được trang bị những kiến thức và rèn luyện những kỹ năng, kỹ sảo nắm vững nghề đã chọn, giúp họ nắm vững được các chế độ làm việc,tính công suất của thiết bị, vận hành máy móc để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng theo đúng quy trình công nghệ.
Trong giai đoạn học tâp chuyên môn cần làm cho người học nghề :
-Biết thao tác trên các thiết bị, làm quen với quy trình công nghệ, các phương pháp tổ chức lao động.
-Nắm vững kiến thức và kỹ năng, hoàn thành những bước công việc khác nhau, tiến đến có những kỹ sảo trong việc làm của mình.
-Nắm được phương pháp lao động tiên tiến của người có năng xuất lao động cao nhất trong sản xuất hoàn thành mức sản lượng, mức thời gian sáng tạo.
-Biết sử dụng đúng các tài liệu các bản vẽ .
-Có tinh thần và ý thức tập thể, chấp hành đúng kỷ luật lao động .
-Biết tổ chức tốt nơi làm việc.
3. Xác đinh hiệu quả kinh tế của đào tạo.
Tính toán hiệu quả kinh tế cho đào tạo công nhân kỹ thuật là một việc cần thiết nhưng phức tạp, cần được nghiên cứu hoàn thiện hơn. Hiện nay người ta thường dùng các chỉ tiêu sau đây cho mọi thành phần kinh tế:
* Chi phí đào tạo cho một công nhân kỹ thuật.
* Tốc độ tăng năng suất lao động sau khi đào tạo.
*Thời gian thu hồi chi phí đào tạo hay tương quan giữa chi phí đào tạo và kết quả thu được.
Chi phí đào tạo (Giá thành đào tạo) được tính theo các yếu tố: Tiền lương của giáo viên dạy nghề, tiền lương của giáo viên hướng dẫn tay nghề, học bổng của học sinh, chi phí quản lý và các chi phí khác.
Hình thức đào tạo
Giá thành đào tạo một công nhâ