* Vị trí địa lý: Hoa Kỳ là một quốc gia ở Tây Bán cầu. Hoa Kỳ gồm 48 bang tiếp giáp nhau trên lục địa Bắc Mỹ; Alaska, một bán đảo tạo thành phần cực tây bắc của Bắc Mỹ và đảo Hawaii, một quần đảo ở Thái Bình Dương. Quốc gia này cũng có nhiều lãnh thổ thuộc Mỹ ở Thái Bình Dương và vùng Caribbean. Hoa Kỳ có chung biên giới với Canada và Mexico và một vùng nước giáp với Nga.
70 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu của công ty cổ phần may 10 sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Của Công Ty Cổ Phần May 10 Sang Thị Trường Hoa Kỳ
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: Tổng Quan Về Nền Kinh Tế Hoa Kỳ Và Thị Trường May mặc Hoa Kỳ
1. Tổng quan về nền kinh tế Hoa Kỳ
* Vài nét về Hoa kỳ:
* Vị trí địa lý: Hoa Kỳ là một quốc gia ở Tây Bán cầu. Hoa Kỳ gồm 48 bang tiếp giáp nhau trên lục địa Bắc Mỹ; Alaska, một bán đảo tạo thành phần cực tây bắc của Bắc Mỹ và đảo Hawaii, một quần đảo ở Thái Bình Dương. Quốc gia này cũng có nhiều lãnh thổ thuộc Mỹ ở Thái Bình Dương và vùng Caribbean. Hoa Kỳ có chung biên giới với Canada và Mexico và một vùng nước giáp với Nga.
* Diện tích: Theo tổng diện tích bao gồm cả diện tích mặt nước, Hoa Kỳ hơi lớn hơn hoặc nhỏ hơn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khiến Hoa Kỳ là quốc gia có diện tích lớn thứ ba thế giới. Tuy nhiên vị trí này còn tùy thuộc vào việc hai vùng lãnh thổ do Ấn Độ tuyên bố chủ quyền nhưng do Trung Quốc quản lý và được tính vào diện tích của Trung Quốc. Cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đều xếp sau Canada và Nga về tổng diện tích. Tính theo diện tích đất, Hoa Kỳ là quốc gia lớn thứ ba thế giới, sau Nga và Trung Quốc. Tính theo tổng diện tích, Hoa Kỳ:
3/10 kích thước châu Phi
1/2 kích thước Nam Mỹ
1/2 kích thước của Nga
Gần như bằng Trung Quốc
Hơi nhỉnh hơn Brazil
Hơi hơn 1 và ¼ kích thước Australia
2 và ½ kích thước của Tây Âu
Xấp xỉ hơn 14 lần kích thước Pháp
Xấp xỉ 39 lần kích thước Anh quốc
Dân số: Trên 300 triệu dân. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đa dạng chủng tộc nhất trên thế giới, do kết quả của những cuộc di dân đến từ nhiều quốc gia khác trên thế giới.
* Ngôn ngữ: Hoa Kỳ không có một ngôn ngữ chính thức, nhưng tiếng Anh được khoảng 82% dân số nói như tiếng mẹ đẻ. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ thông dụng thứ nhì tại Hoa Kỳ, được khoảng 30 triệu người nói (hay 12% dân số).
* Đơn vị tiền tệ: Dollar Hoa Kỳ (USD)
* Nhà lãnh đạo kinh tế: Tổng thống Obama
* Nền kinh tế Hoa kỳ:
Gần đây đã có nhiều ưu tư về kinh tế Hoa kỳ và nhiều người cho là kinh tế Hoa kỳ xuống dốc. Ở đầu năm 2009, ta nêu đánh giá sức mạnh và thế yếu của kinh tế Hoa Kỳ và so sánh với nhiều các kinh tế khác trên toàn cầu. Sau khi đánh giá lợi ưu thế thì sẽ đánh giá những cố gắng của chính phủ Bush cùng chính phủ kế tiếp để lấy lại địa vị Hoa Kỳ trên thế giới
Chỗ đứng của kinh tế Hoa Kỳ trên thế giới
GDP: Hạng 1 trên thế giới.
GDP theo đầu người: Hạng 16.
Chi tiêu y tế theo đầu người: Hạng 1.
Sản xuất năng lượng theo đầu người: Hạng 6.
Chi tiêu về nghiên cứu và phát triển (R&D) theo đầu người: Hạng 1.
Tỷ lệ tăng gia dân số so với các nước phát triển G8 : Hạng 1.
Tỷ lệ học đại học: Hạng 7.
Trong 2008: Nếu dựa trên các con số thì GDP của Hoa Kỳ khoảng 14,000 tỷ USD nghĩa là gấp ba lần GDP kinh tế Nhật đứng thứ hai trên thế giới và gấp 4 lần GDP của Trung Quốc và của Ðức được ước lượng khoảng 3,500 tỷ USD. Nhìn chung thì GDP Hoa Kỳ không những đứng số 1 về phương diện tổng quát nhưng cũng đứng số 1 về công nghiệp và dịch vụ. Năm 2005, trị giá về công nghiệp là 1,700 tỷ USD trong khi đó sản xuất công nghiệp của Nhật trị giá $950 tỷ trong khi đó Trung Quốc ở mức 750 tỷ USD. Trong thời kỳ kinh tế suy giảm, trị giá công nghiệp sẽ sút nhưng các nước khác cùng tình trạng.
Mặc dù GDP/đầu người thì Hoa Kỳ đứng thứ 16 nhưng nếu nhìn xâu hơn và kỹ càng hơn thì Hoa Kỳ còn giữ hàng đầu.
Về nhà đất trung bình nhà của Mỹ rộng hơn gấp hai nhà tại Âu Châu như tại Ðức, Pháp, Anh trong khi trung bình nhà tại Hoa Kỳ còn rộng hơn Âu Châu nhiều.
Về mức sống và đắt đỏ thì Hoa Kỳ còn nằm trong các nước hàng đầu. Một gia đình tại Mỹ chỉ xài 5.7% về ăn uống trong khi đó các nước Âu Châu hay Canada phải xài 9 đến 14% về ăn uống và một gia đình Nhật phải xài đến 15% lợi tức để trang trải phần ăn uống.
Hoa Kỳ có hệ thống hạ tầng cơ sở rất tốt: xa lộ, đường, đường rầy xe lửa, cầu, hệ thống cảng, điện, nước, v.v. Hạ tầng cơ sở của Hoa Kỳ đường sắp vào hạng thứ 9 trên thế giới sau hệ thống hạ tầng của Ðức, Pháp, và 4 nước Âu Châu khác và Singapore và Hong Kong.
Dự đoán kinh tế Hoa Kỳ năm 2009 như sau:
GDP: Xuống còn 1-1.8%.
Lãi suất: Xuống còn khoảng 3-3.5%.
Lạm phát: Xuống.
Tỷ lệ thất nghiệp: Lên 7-9%.
Dầu khí: Xuống khoảng 45-70 USD/thùng.
Tỷ lệ bán lẻ: Xuống.
Thâm hụt cán cân thương mại: Xuống còn 400-500 USD tỷ hay 3% GDP.
Kinh tế Mỹ tiếp tục mất đi hàng trăm ngàn việc làm, nâng tỷ lệ thất nghiệp lên mức cao nhất từ năm 1983. Theo số liệu do Bộ Lao Động Mỹ công bố trong tháng ba vừa qua, đã có thêm 663 ngàn việc làm bị cắt giảm, nâng tỷ lệ thất nghiệp lên 8,5%.
Như vậy là từ khi tình trạng suy thoái kinh tế bắt đầu tháng 12 năm 2007, Hoa Kỳ đã mất 5,1 triệu chỗ làm, trong số này có 3,3 triệu đã bị dẹp bỏ chỉ trong vòng năm tháng gần đây nhất.
Ngành công nghiệp, vốn bị khó khăn từ hơn hai năm qua, đã mất thêm 305 000 chỗ làm trong tháng ba, trong khi đó lĩnh vực dịch vụ, nơi làm việc của khoảng 85 % người lao động ngoài nông nghiệp ở Hoa Kỳ đã dẹp thêm 358 000 chỗ làm trong tháng ba. Lĩnh vực duy nhất tạo việc làm là ngành giáo dục và dịch vụ y tế với 8000 chỗ làm.
Tình hình đen tối trong lĩnh vực công ăn việc làm phần nào làm giảm nhẹ cảm tưởng lạc quan gần đây là cuộc khủng hoảng ở Hoa Kỳ đã xuống đến tận cùng và không thể trở nên trầm trọng hơn. Nhất là tháng hai vừa qua các đơn đặt hàng trong ngành công nghiệp đã bất ngờ tăng lên lần đầu tiên từ sáu tháng qua. Cùng lúc có những dấu hiệu cho thấy là niềm tin của người tiều dùng bắt đầu được hồi phục.
Tuy nhiên trong mấy dự báo sau cùng công bố hồi tháng hai, Ngân hàng Trung ương Mỹ đã dự đoán là tỷ lệ thất nghiệp sẽ là từ 8,5 % đến 8,8 % trong năm 2009. Nhưng với nhịp độ phát triển hiện nay của thất nghiệp, nhiều nhà phân tích cho rằng tỷ lệ thất nghiệp sẽ là hai số trong năm 2010 và chắc chắn sẽ là trên 9 % trong năm nay.
2. Thị trường may mặc Hoa kỳ
Thị trường hàng may mặc Hoa Kỳ
Xuất khẩu hàng may mặc dệt kim của nhiều nước ASEAN như Việt Nam, Thái Lan, Campuchia, Inđônêxia, Philippin và Lào tăng lên, trong khi xuất khẩu của Brunei và Singapore giảm đi. Hiện Việt Nam là nước đứng thứ 7 về xuất khẩu hàng may mặc dệt kim vào thị trường Hoa Kỳ.
Sau khi hạn ngạch hàng dệt may được bãi bỏ, nhập khẩu từ các nước xuất khẩu hàng dệt may có chi phí thấp như Trung Quốc và Ấn Độ tăng mạnh. Bên cạnh hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, hàng may mặc dệt kim nhập khẩu từ Ấn Độ cũng tăng 37,91%, lên 937 triệu USD.
Năm 2005, nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị trường Hoa Kỳ đạt 37,514 tỉ USD, tăng 6,3% so với năm 2004. Trung Quốc cũng là nước đứng đầu về xuất khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị trường Hoa Kỳ với kim ngạch xuất khẩu đạt 10,231 tỉ USD, tăng 54,57% so với năm 2004, chiếm 27,27% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi của Hoa Kỳ. Tiếp theo là Mêhicô và Ấn Độ với kim ngạch xuất khẩu tương ứng đạt 3,841 tỉ USD và 2,121 tỉ USD. Trong khi xuất khẩu của Mêhicô giảm 7,13%, thì xuất khẩu của Ấn Độ lại tăng tới 32,75% so với năm 2004.
Do xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ tăng quá nhanh, ngày 8/11/2005, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã ký hiệp định hạn chế xuất khẩu 34 mặt hàng dệt may của Trung Quốc sang Hoa Kỳ trong thời hạn 3 năm. Hiệp định này có hiệu lực từ 1/1/2006, quy định hạn ngạch đối với một số mặt hàng dệt-may của Trung Quốc xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong 3 năm từ năm 2006 đến năm 2008. Trong số các mặt hàng may mặc có sơ mi cotton dệt kim, tất, sơ mi nam và bé trai dệt thoi, áo dệt kim, quần cotton, áo bơi, bộ complê len, sơ mi dệt kim từ sợi nhân tạo, quần từ sợi nhân tạo và quần từ tơ tằm/sợi thực vật. Hiệp định này đã đáp ứng các yêu cầu từ phía các nhà sản xuất hàng dệt-may Hoa Kỳ, nhưng cũng gặp không ít ý kiến phản đối từ phía Hiệp hội Nhập khẩu hàng dệt-may cũng như Hiệp hội các nhà bán lẻ Hoa Kỳ, do những biện pháp hạn chế nhập khẩu từ Trung Quốc, sẽ làm tăng giá sản phẩm dệt-may trên thị trường Hoa Kỳ, khi các nhà nhập khẩu buộc phải tìm kiếm các nhà xuất khẩu có mức giá cao hơn từ các nước xuất khẩu châu Á và Trung Mỹ.
Dung lượng thị trường
Doanh thu bán lẻ hàng may mặc trên thị trường Hoa tăng khoảng 2,1%/năm trong giai đoạn 2004 – 2008, lên 121,2 tỉ USD.
Mặc dù mức tăng tiêu thụ ít nhiều bị ảnh hưởng của xu hướng suy giảm thu nhập, nhưng giá sản phẩm dệt-may cũng có xu hướng giảm do nhiều nhà sản xuất Hoa Kỳ đã chuyển cơ sở sản xuất ra nước ngoài, để giảm chi phí cũng như do tỉ trọng hàng may mặc giá rẻ nhập khẩu từ các nước có chi phí sản xuất thấp gia tăng. Các sản phẩm mang nhãn mác riêng của nhà sản xuất cũng như của các tập đoàn bán lẻ nổi tiếng vẫn là lựa chọn ưu tiên của người tiêu dùng Mỹ.
Kênh phân phối
Kênh bán lẻ hàng may mặc lớn nhất trên thị trường Hoa Kỳ là các chuỗi cửa hàng bán lẻ. Các chuỗi cửa hàng chuyên doanh như “Gap” đã tăng doanh thu nhờ chiến lược tập trung vào các mặt hàng thời trang thông dụng cho các đối tượng tiêu dùng từ 20 – 30 tuổi. Nhiều nhà bán lẻ cũng áp dụng chiến lược tập trung cho một số nhóm đối tượng tiêu dùng riêng biệt như hàng thời trang “cấp tiến” hay các đối tượng tiêu dùng trẻ. Hiện chi tiêu cho hàng may mặc của nhóm trẻ vị thành niên chiếm tới 20% tổng mức chi tiêu cho hàng may mặc của Hoa Kỳ.
Thị trường bán lẻ hàng may mặc của Hoa Kỳ có xu hướng “phân mảng” khá rõ nét. 5 nhà bán lẻ lớn nhất chiếm tới 28,1% tổng dung lượng thị trường, trong đó Gap chiếm 12,1%; TJX (Marshall’s, TJ Max, A.J.Wright) chiếm 7,4%; Limited Brands (Limited, Express, Victoria’s Secret) chiếm 4,2%; Burlington chiếm 2,7% và Charming Shoppes (Lane Bryant, Fashion Bug, Catherine’s), chiếm 2%.
Bên cạnh các kênh phân phối truyền thống, bán hàng qua mạng Internet đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2008, khoảng 10% hàng may mặc sẽ được tiêu thụ qua mạng.
* Tiềm năng của thị trường Hoa Kỳ
Hoa Kỳ đã cung cấp một thông tin thú vị, đó là các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đánh giá rất tốt về sản phẩm Việt Nam và sẵn sàng mua hàng Việt Nam.
Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ luôn muốn tìm kiếm các nguồn cung cấp mới và hơn lúc nào hết, khi đã trở thành thành viên của WTO, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần chủ động tìm đến các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ để tìm cơ hội. Các nhóm hàng được các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ quan tâm và kỳ vọng ở các nhà xuất khẩu Việt Nam là đồ gỗ gia dụng, giày da, thực phẩm, hàng may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ và quà tặng lưu niệm. Ngoài ra, hàng dệt gia đình (các loại màn cửa, bao gối, chăn, ga…) cũng có thể xuất khẩu và tiêu thụ tốt tại Hoa Kỳ. Hàng thủ công của các dân tộc thiểu số, có tính chất đặc biệt… cũng có thể là một mặt hàng xuất khẩu thế mạnh, nếu các nhà xuất khẩu Việt Nam nắm bắt tốt thị hiếu.
Hoa Kỳ là một thị trường hỗn hợp, đa dạng nhu cầu về chủng loại, chất lượng và giá cả hàng hóa. Vì thế các nhà xuất khẩu chỉ cần nắm bắt được nhu cầu và phân khúc thị trường là không sợ thất bại. Là một quốc gia công nghiệp, người Mỹ thích sự sẵn sàng, thuận tiện, nhanh chóng. Chẳng hạn, với mặt hàng quà tặng, người Mỹ chuộng những sản phẩm có sẵn bao bì đóng gói, đến mua là có ngay, chứ không cần phải mất thời gian chờ đợi và đó là điều các nhà xuất khẩu cần phải nắm bắt.
Khi hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã có hiệu lực, Việt Nam được hưởng ưu đãi MFN đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. như vậy triển vọng tăng mạnh khối lượng xuất khẩu hàng hoá sẽ rất lớn. Điều đó ngành may mặc sẽ có điều kiện thu được ngoại tệ lớn, góp phần không nhỏ trong việc phục vụ các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Xuất khẩu hàng dệt may những tháng đầu năm xuất khẩu vào thị trường Mỹ, dù sụt giảm chút ít so với một số thị trường khác, song đây vẫn tiếp tục là số 1 của hàng dệt may Việt Nam với kim ngạch chiếm 57% tổng giá trị xuất khẩu mặt hàng này. Tiếp theo Mỹ là các thị trường EU chiếm 18%, Nhật Bản với 9%.
Sự đánh giá cao từ các khách hàng nhập khẩu dành cho chất lượng sản phẩm và việc bảo đảm thời gian giao hàng của các nhà xuất khẩu Việt Nam đã đẩy lượng đơn đặt hàng tăng nhiều trong năm nay. Trong đó, lượng đơn hàng giá trị cao cũng tăng, doanh nghiệp sản xuất giảm bớt một phần khó khăn do nhiều doanh nghiệp đặt hàng tăng giá gia công và giá xuất khẩu khoảng 10-15%.
Theo Tổng cục Thống kê, 8 tháng đầu năm 2008, hàng dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6,04 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Dệt may vẫn duy trì ngôi vị thứ hai trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, sau dầu thô.
Các Nhà Nhập Khẩu Hoa Kỳ Hạn Chế Mua Hàng Trung Quốc: Đây là một tiềm năng rất lớn cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này.
Xuất khẩu hàng may mặc Trung Quốc sang Hoa Kỳ giảm sút nghiêm trọng trong năm 2008 do chi phí sản xuất cao hơn, đồng NDT tăng giá nhanh và cạnh tranh tăng lên từ Việt nam trong khi quota đối với phần lớn các cat nhậy cảm vẫn được duy trì cho tới cuối năm. Nhập khẩu hàng may mặc của Hoa Kỳ từ Trung Quốc đã giảm 15% trong tháng 12/07, có thể cho thấy khả năng chuyển các đơn hàng sang các nước khác trong thời gian tới. Và Việt Nam chúng ta sẽ co cơ hội rất lớn để kí kết các đơn hàng này.
* Nhiều nhà xuất khẩu trên thế giới xuất khẩu vào Hoa kỳ
Giá nhập khẩu đối với mặt hàng dệt may đang có xu hướng tăng lên. Các nước xuất khẩu hàng dệt may chính sang Hoa Kỳ là Trung Quốc, Mexico, Ấn Độ, Việt Nam, Indonesia… Trung Quốc là nước cung cấp nhóm hàng này lớn nhất cho Hoa Kỳ cả về số lượng lẫn kim ngạch.
Nhập khẩu dệt may từ Mexico, nước cung cấp lớn thứ hai của Hoa Kỳ, năm 2007 giảm cả về số lượng và kim ngạch. Trong khi đó, mặc dù mới chỉ chiếm 13,6% về kim ngạch và 14,9% về số lượng của thị trường nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ, song sản phẩm dệt may đến từ các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, Pakistan đang tăng mạnh.
* Xu hướng tiêu dùng hàng may mặc trên thị trường Hoa kỳ
Trong xu thế toàn cầu hoá, sản phẩm chỉ có thể khẳng định vị trí và năng lực cạnh tranh của mình bằng chính chất lượng. Những đặc tính cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng hàng dệt may bao gồm: nhãn mác, kiểu dáng, kích cỡ, độ bền và sự tiện lợi khi sử dụng.
Người tiêu dùng Mỹ rất thực tế, họ luôn cân nhắc và tính toán sao cho công việc mình làm đem lại hiệu quả cao nhất. Về thị trường tiêu thụ hàng dệt may, cho dù người tiêu dùng Mỹ coi trọng vấn đề nhãn mác, giới trẻ đặc biệt thích tiêu dùng đồ hiệu nhưng họ cũng rất nhạy cảm với giá cả, tuy nhiên họ vẫn có thể trả nhiều tiên cho những sản phẩm có chất lượng tốt mang tính sang tạo.
Về chất lượng sản phẩm: Theo thói quen mua hàng truyền thống, người tiêu dùng thường đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua thương hiệu, nhãn mác sản phẩm. Thương hiệu nổi tiếng mang ý nghĩa quan trọng để tạo nên sức hấp dẫn của sản phẩm, song ngày nay người tiêu dùng Mỹ không quá coi trọng thương hiệu nữa, chỉ có khoảng 32% hách hàng luôn chú ý vào nhãn mác sản phẩm trước khi họ quyết định mua hàng. Người tiêu dùng Mỹ quan tâm tới chất lượng nhiều hơn, 60% người tiêu dùng tìm hiểu kỹ chất lượng sợi trước khi quyết định mua hàng, chỉ 17% khách hàng sử dụng những sản phẩm may mặc của một hãng sản xuất duy hất mà họ cho là nổi tiếng thế giới, tỷ lệ này rơi vào các ngôi sao điện ảnh, ca sĩ, người mẫu hoặc những người nổi tiếng.
Thời trang và thị hiếu về màu sắc: Tính cách người dân Mỹ phóng khoáng, điều này cũng có ảnh hưởng lớn tới sự lựa chọn sản phẩm của họ. Họ mua hàng phần nhiều theo cảm hứng, thế nên nếu không tìm thấy loại sản phẩm mà mình ưa chuộng thì có thể mua một loại sản phẩm khác để thay thế. Tuy nhiên khả năng thích ứng với các loại sản phẩm khác nhau cũng tuỳ thuộc vào lứa tuổi, khi tuổi càng cao thì khả năng thích ứng này càng giảm.
Người tiêu dùng Mỹ rất phong phú: Trong xu hướng tiêu dùng người Mỹ có sở thích mua những sản phẩm mang phong các cổ điển hơn những sản phẩm mốt thời thượng, mặc dù tỷ lệ khách hàng thích dùng sản phẩm mốt thời thượng khá cao, chiếm khoảng 20% tổng số người tiêu dùng hàng dệt may, đứng thứ nhì thế giới chỉ sau Đức (30%), hơn hẳn các trung tâm thời trang lớn như Anh và Italia (tỷ lệ này là khoảng 15%), Pháp (17%). Quần áo mang phong cách cổ điển chiếm giữ thị phần đáng kể tại thị trường Mỹ - khoảng 79%, chứng tỏ thị trường tiềm năng này có nhu cầu rất phong phú, đối tượng phục vụ khá rộng: giới sành điệu và cả những ngưòi bình dân.
Người Mỹ rất nhạy cảm với những thay đổi theo mùa vụ: Người tiêu dùng có thói quen là họ quyết định mua hàng theo thời vụ. Bắt đầu mỗi mùa tiêu thụ, họ sẽ đi mua hàng ngay chứ không chờ đến cuối mùa mới mua với giá rẻ hơn. Cho nên, yếu tố giao hàng đúng thời hạn, bắt kịp thời vụ cũng rất quan trọng trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ.
Do nhiều nền văn hoá khác nhau cùng tồn tại với nhiều sắc tộc, nhiều tôn giáo, tín ngưỡng vì vậy thị hiếu người dân Mỹ rất đa dạng. Với hàng hoá là những đồ dùng cá nhân như dày dép, quần áo người Mỹ thích sự đơn giản, thoải mái. Thị trường mỹ khá dễ tính về sản phẩm may song lại rất khó tính về sản phẩm dệt và chất lịệu sản phẩm dệt. Người Mỹ thích vải sợi bông cotton không nhàu, khổ rộng. Ngưòi Mỹ đang có xu hướng thay đổi tiêu dùng từ các loại sản phẩm dệt thoi sang các sản phẩm dệt kim vì những ưu điểm mới của sản phẩm này
3. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ
Hoa kỳ_ nước có nền khoa học công nghệ rất phát triển và nguồn vốn dồi dào vào bậc nhất trên thế giới, một thị trường đầy tiềm năng. Việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp làm ăn với các đối tác Hoa Kỳ. Giải quyết thị trường đầu ra rất lớn cho doanh nghiệp.
Việt Nam đang cố gắng mở rộng và xâm nhập vào thị trường thế giới. Với lợi thế về nguồn nhân công giá rẻ và những kinh nghiệm lâu năm với các thị trường lớn như EU, Canada, Nhật Bản….vậy nên Hoa kỳ - một thị trường đầy tiềm năng này hoàn toàn chúng ta có thể xâm nhập và mở rộng được.
Các sản phẩm dệt may được sản xuất tại Hoa Kỳ chủ yếu tập trung ở một số nhóm hàng chính như thêu ren, đồ dùng trong nhà như thảm, rèm cửa và vải bọc cho các sản phẩm nội thất. Các công ty lớn của Hoa Kỳ chủ yếu chuyên sâu vào các dòng sản phẩm chất lượng cao, trong khi đó các công ty vừa và nhỏ lại thành công với những sản phẩm dệt may hàng loạt. Mặc dù ngày càng “tự động hoá” trong sản xuất nhưng số lượng lao động sử dụng trong ngành dệt may của Hoa Kỳ vẫn rất lớn với thu nhập hàng năm khoảng gần 170.000 USD.
Các nguyên liệu chính được sử dụng trong ngành sản xuất vải sợi của Hoa Kỳ là len, bông (cotton) và sợi nhựa tổng hợp. Vải chiếm 40% doanh thu của ngành sản xuất dệt may Hoa Kỳ, chỉ sợi chiếm 20%, các loại thảm chiếm 20%, và chăn màn, rèm cửa chiếm 20%.
Nhu cầu nhập khẩu: Với những mặt hàng chính như quần áo may sẵn, hàng thêu ren, trang trí và vải sợi, nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ chỉ tăng 1,8% trong năm 2007. Trong đó các sản phẩm dệt tăng 4,5%, hàng thêu ren tăng 3,5%, tuy nhiên nhập khẩu vải giảm 2,9% và sợi giảm 9,8%. Hàng thêu ren vẫn tiếp tục chiếm thị phần lớn nhất trong tổng sản lượng nhập khẩu hàng dệt may với 43,9%. Mặc dù vậy, các sản phẩm từ vải dệt đang ngày càng trở nên quan trọng trong những năm qua với thị phần tăng đều theo các năm từ 16,8% năm 1997 lên đến 33,7% năm 2007.
Về chất liệu, cotton hiện vẫn rất được ưa chuộng tại Hoa Kỳ. Năm 2007, số lượng nhập khẩu mặt hàng quần áo chất liệu cotton chiếm 60,2% tổng số lượng hàng dệt may của Hoa Kỳ.
Theo thống kê của Bộ thương mại Hoa Kỳ, xuất khẩu dệt may của Trung Quốc sang Hoa Kỳ đang giảm xuống, thị phần của Trung Quốc đang thu hẹp lại, tạo cơ hội cho các sản phẩm dệt may đến từ Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng hơn 20%, Ấn Độ tăng 8,2%, trong khi đó Trung Quốc chỉ tăng 0,2%, thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng 14,8% năm 2007.
4. Các hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa kỳ
Mặc dù giá nguyên liệu tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, Việt Nam vẫn xuất khẩu được 2,4 tỉ USD kim ngạch sản phẩm dệt may sang thị trường Hoa Kỳ trong 6 tháng đầu năm, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Hoa Kỳ hiện là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, tiếp đó là EU (780 triệu USD) và Nhật Bản (360 triệu USD).
Hiện nay, Hội đồng Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đang xếp Việt Nam nằm trong top 5 nhà xuất khẩu dệt may lớn n