Đề tài Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

Quỹ hỗ trợ phát triển ra đời và hoạt động từ ngày 1/1/2000 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực đầu tư phát triển của Việt Nam. Với chức năng tập trung, huy động các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để hỗ trợ các dự án đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế mà Nhà nước cần khuyến khích đầu tư thông qua các hình thức cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, Quỹ hỗ trợ phát triển trở thành trung gian tài chính lớn nhất thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Trong 3 hình thức hỗ trợ đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là một chính sách mới có nhiều ưu điểm vượt trội so với cho vay đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư, có khả năng mang lại nhiều lợi ích cho cả Nhà nước và doanh nghiệp. Về phía Nhà nước, chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không đòi hỏi nguồn vốn lớn mà vẫn đảm bảo hỗ trợ cho nhiều doanh nghiệp, chi phí quản lý thấp, không gặp phải rủi ro tín dụng đồng thời xoá bỏ được sự bao cấp vốn đầu tư như những năm trước đây. Về phía doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư một mặt giảm bớt gánh nặng lãi suất tín dụng cho doanh nghiệp trong quá trình đầu tư, mặt khác nó phát huy tính chủ động, sáng tạo của chủ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn vốn, đồng thời gắn việc vay vốn với trách nhiêm sử dụng vốn có hiệu quả và hoàn trả đúng hạn.

doc77 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Quỹ hỗ trợ phát triển ra đời và hoạt động từ ngày 1/1/2000 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực đầu tư phát triển của Việt Nam. Với chức năng tập trung, huy động các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để hỗ trợ các dự án đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế mà Nhà nước cần khuyến khích đầu tư thông qua các hình thức cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, Quỹ hỗ trợ phát triển trở thành trung gian tài chính lớn nhất thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Trong 3 hình thức hỗ trợ đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là một chính sách mới có nhiều ưu điểm vượt trội so với cho vay đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư, có khả năng mang lại nhiều lợi ích cho cả Nhà nước và doanh nghiệp. Về phía Nhà nước, chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không đòi hỏi nguồn vốn lớn mà vẫn đảm bảo hỗ trợ cho nhiều doanh nghiệp, chi phí quản lý thấp, không gặp phải rủi ro tín dụng đồng thời xoá bỏ được sự bao cấp vốn đầu tư như những năm trước đây. Về phía doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư một mặt giảm bớt gánh nặng lãi suất tín dụng cho doanh nghiệp trong quá trình đầu tư, mặt khác nó phát huy tính chủ động, sáng tạo của chủ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn vốn, đồng thời gắn việc vay vốn với trách nhiêm sử dụng vốn có hiệu quả và hoàn trả đúng hạn. Tuy nhiên, sau hơn hai năm thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, kết quả đã hoàn toàn không được như mong đợi. Trong năm 2000 và 2001, toàn bộ hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển chỉ thực hiện được 143 hợp đồng với tổng số tiền hỗ trợ là 68 tỷ đồng đạt 34% kế hoạch Nhà nước giao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do chính sách chưa hoàn thiện đã gây cho doanh nghiệp và Quỹ Hỗ trợ phát triển không ít khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Sự không hoàn thiện thể hiện trên nhiều mặt: đối tượng được hưởng chính sách, quy trình lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, điều kiện thủ tục còn rườm rà và đặc biệt là cơ chế tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không hợp lý nên không hỗ trợ thoả đáng cho doanh nghiệp. Trong quá trình thực tập tại Vụ Tài chính các ngân hàng và các tổ chức tài chính, thuộc Bộ tài chính, là cơ quan Nhà nước trực tiếp quản lý hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển; đồng thời có tham khảo kinh nghiệm thực tế tại chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà nội, em đã tập trung nghiên cứu về chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và tiến hành làm luận văn tốt nghiệp với đề tài: "Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư", với hy vọng rằng những kiến nghị do em đề xuất có thể ứng dụng được trong thực tiễn góp phần đưa chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thực sự đi vào cuộc sống. Mục đích nghiên cứu -Nghiên cứu tình hình thực tế việc thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển, tìm ra những điểm còn chưa hợp lý gây cản trở đến việc thực thi chính sách. -Đưa ra những kiến nghị có căn cứ khoa học và thực tiễn đễ sửa đổi những điểm còn chưa hợp lý của chính sách. Nội dung của luận văn: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương: - Chương I: Khái quát về đầu tư phát triển, hoạt động hỗ trợ đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển đồng thời trình bày chi tiết về chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. - Chương II: Phân tích chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và tinh hình thực hiện chính sách hỗ trợ laĩ suất sau đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển trong hai năm 2000 và 2001; đánh giá những thành tựu đạt được và những tồn tại cần phải khắc phục. - Chương III: Đề xuất những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ ĐẦU TƯ CỦA QUỸ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN I. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Khái niệm về đầu tư phát triển * Khái niệm: Thuật ngữ " đầu tư " (investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với "sự bỏ ra", "sự hi sinh" những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Chẳng hạn, chúng ta xem xét các tình huống sau dây: Một công ty đã chi 100 triệu đồng để xây dựng thêm một kho chứa nguyên vật liệu. Một nhân viên văn phòng đã chi tổng cộng hết 4 triệu đồng cho việc học đại học tại chức trong thời gian bốn năm. Một thương gia bỏ ra 200 triệu mua hàng dự trữ trong thời vụ tết. Một giáo viên hàng tháng để dành 500.000 đồng đem gửi tiết kiệm để hưởng lãi suất. Một doanh nhân bỏ ra 50 triệu đồng để mua lại cổ phần của hãng A từ một cổ đông của hãng. Công ty B bán 400 triệu đồng chứng khoán và dùng tiền này để xây thêm một phân xưởng mới. Trường đại học X đã chi hàng chục triệu đồng để mời các chuyên gia kinh tế giỏi đến để báo cáo về thành quả đổi mới chính sách và quản lý kinh tế ở Việt Nam cho giáo viên của trường. Tất cả những hành động bỏ tiền ra để tiên hành các hoạt động trên đây đều nhằm mục đích chung là thu được lợi ích (về tài chính, về cơ sở vật chất, về nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức...) trong tương lai, lớn hơn những chi phí bỏ ra. Và vì vậy, nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra thì các hành động này đều được gọi là đầu tư. Tuy nhiên, nếu xem xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả hành động trên đây đều đem laị lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất, trí tuệ...) cho nền kinh tế. Các hành động này thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền (gửi tiết kiệm) quyền sở hữu cổ phần và hàng hoá (mua lại cổ phần và mua tích luỹ hàng hoá) từ người này sang người khác và do đó chỉ làm cho số tiền thu về của người đầu tư lớn hơn số tiền mà họ đã bỏ ra tuỳ thuộc vào lãi suất tiết kiệm, lợi tức cổ phần hoặc giá hàng vào dịp Tết. Giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây lại chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm (lãi suất phải trả); của cổ đông đã bán lại cổ phần ( lợi tức cổ phần); của người mua hàng vào dịp tết (với giá cao). Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp. Các hoạt động bỏ tiền xây dựng thêm kho chứa nguyên vật liệu, chi 4 triệu để đi học đại học tại chức, phát hành chứng khoán để xây dựng thêm một phân xưởng mới, tổ chức báo cáo khoa học, đã làm tăng thêm các tài sản vật chất (xây thêm kho chứa nguyên vật liệu, thêm một phân xưởng mới) tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực (học đại học tại chức, bồi dưỡng giáo viên) cho nền kinh tế. Các hoạt động này gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế. Như vậy, đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. * Phân biệt đầu tư phát triển với các hoạt động đầu tư khác: Từ sự phân tích trên đây, xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây: - Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiêm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc nhằm mục đích thu lời cũng là một loại đầu tư tài chính nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lại lợi nhuận về cho công ty thì đây lại là đầu tư phát triển, nếu được Nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt động do Nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. - Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch gía khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến hoạt động ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. - Đầu tư phát triển: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ta tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo một tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. 2. Vai trò của đầu tư phát triển đối với nền kinh tế 2.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước: * Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu: Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Trong ngắn hạn, tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường d1 dịch chuyển sang d2) kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 -Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ Po-P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 -E1 Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư tác phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường tổng cung dịch chuyển từ vị trí s1 sang s2), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1-Q2 và do đó gía cả sản phẩm giảm từ P1-P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất tăng hơn nữa. Sản xuất phát triển là là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. p s1 s2 E1 P1 E0 P0 E3 P2 d2 d1 Qo Q1 Q2 q Hình 1: Tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu *Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn đình vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) dến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Đầu tư giảm cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. * Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Hàm sản xuất đơn giản nhất và nổi tiếng nhất dược sử dụng để phân tích sự phát triển kinh tế do các nhà kinh tế Roy Harrod (Anh) Và Evsey Domar (Mỹ) nêu ra từ những năm 1940 đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tỷ lệ đầu tư và hệ số gia tăng tư bản- đầu ra (ICOR - Incremental Capital-Output Ratio) như sau: i g= ----- k Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế i: Tỷ lệ đầu tư trong GDP k: Hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR), k = Dk/Dy, (Dk-mức tăng của vốn, Dy-mức tăng của sản lượng) Như vậy, theo phương trình trên thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ đầu tư của nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR. Điều đó có nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài của nền kinh tế cần phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư đồng thời khống chế ở mức chấp nhận được đối với hệ số ICOR. Nếu hệ số ICOR không đổi thì tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào tỷ lệ đầu tư. Hệ số ICOR của Việt Nam thời kỳ 1986-2000 86-90 91-95 96-98 1999 2000 Tăng trưởng GDP (%) 4,34 8,2 7,77 4,8 6,7 Đầu tư so GDP (%) 13,4 22,03 28,37 26,0 28,3 ICOR 3,0 2.7 3,7 5,4 4,3 Bảng 1: Nguồn niên giám thống kê, www.vneconomy.vn Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng nhiều công nghệ có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 2 - 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Bảng trên cho thấy có sự thay đổi rõ ràng giữa tốc độ tăng trưởng, đầu tư và hệ số ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1986-2000. Hệ số ICOR của Việt Nam có xu hướng tăng, đặc biệt có sự tăng lên mạnh mẽ kể từ năm 1996 do nhiều nguyên nhân, các nhà kinh tế dự báo rằng hệ số ICOR của Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục tăng. Do vậy để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 7% trong những năm tới chúng ta cần đảm bảo tỷ lệ đầu tư đạt trên 30% GDP mỗi năm. * Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng (từ 9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển quá trình chuyển dịch cơ cấu kiinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế , kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. * Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam đang nằm ở giai đoạn 2 và 3. Việt Nam đang là 1 trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra dược một chiến lược phát triển nhanh và vững chắc. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi nới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. 2.2. Đối vớ các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời , tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà, xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy nóc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền vớ sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại; sau một thời gian hoạt động các cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở này bị hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với diều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội., phải mua sắm các trang thiết bị mới, thay thế cho các trang thiết bị cũ cũng có nghĩa là phải đầu tư. 3. Tín dụng Nhà nước cho đầu tư phát triển và vai trò của nó đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tín dụng Nhà nước là quan hệ tín dụng mà trong đó Nhà nước vừa là người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của Ngân sách Nhà nước, đồng thời là người cho vay để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình trong quản lý kinh tế-xã hội và phát triển quan hệ đối ngoại. Hình thức huy động của tín dụng Nhà nước thể hiện như: công trái quốc gia, công phiếu kháng chiến trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; hay trái phiếu kho bạc, trái phiếu địa phương, trái phiếu đầu tư trong giai đoạn hiện nay. Tín dụng Nhà nước cho đầu tư phát triển là một bộ phận của tín dụng Nhà nước. Đây cũng là một hình thức tín dụng, trong đó Nhà nước là người cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vay để thực hiện đầu tư phát triển trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi cho Nhà nước theo quy định của hợp đồng tín dụng đã ký giữa cơ quan Nhà nước được Uỷ quyền thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước với đơn vị vay vốn. Mục đích của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là trợ giúp và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng cường đầu tư phát triển, thúc đẩy việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một nguồn vốn quan trọng của đầu tư phát triển. Ở nước ta, trước năm 1990 vốn Ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển chủ yếu được thực hiện thông qua con đường cấp phát trực tiếp cho các doanh nghiệp, tín dụng Nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế. Đến giai đoạn 1991-2000 vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tăng trưởng tương đối nhanh cả về giá trị tuyệt đối lẫn giá trị tương đối. Trong năm 1991-1995, nguồn vốn tín dụng Nhà nước chiếm 5-6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng lên không ngừng đạt 14,5% giai đoạn 1996-1998. Riêng năm 2000, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chiếm tới 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. * Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong việc xoá bỏ bao cấp trong đầu tư: Trước năm 1996, khi luật ngân sách chưa ra đời, việc đầu tư trực tiếp từ Ngân sách Nhà nước đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp là một trong những hình thức bao cấp trong đầu tư. Do việc cấp phát không hoàn lại trực tiếp, các doanh nghiệp, dân cư thường trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, không chú
Tài liệu liên quan