Đề tài Hoàn thiện hệ thống công cụ phân tích hiệu quả kinh tế – tài chính dự án tại EVN
Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) được thành lập theo quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ là một trong những Tổng công ty 91 hàng đầu của Việt Nam, với chức năng kinh doanh chính là sản xuất, kinh doanh điện năng. Thời điểm khi thành lập, do vẫn còn ảnh hưởng cơ chế kinh tế tập trung bao cấp nên hoạt động sảnxuất của EVN vẫn còn mang nặng tính hành chánh, cơ chế hạch toán phụthuộc được áp dụng phổ biến và các quyết định đầu tư cũng chịu ảnh hưởng bởi cơ chế bao cấp, tập trung, người quyết định đầu tư chưa quan tâm đến hiệu quả kinh tế, tài chính của dự án sẽ đầu tư. Kể từ khi thành lâp đến nay, hàng năm EVN và các Công ty thành viên đầu tư hàng trăm dự án và công trình điện với vốn đầu tư hàng ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên, việc thẩm định cũng như đánh giá hiệu quả của các dự án đầu tư chưa thật sự được xem trọng, thường chỉ tập trung vào các dự án nguồn điện lớn. Đối với các dự án quy mô trung bình, nhỏ việc quyết định đầu tư thường mang tính giải quyết tức thời, chưa đánh giá hiệu kinh tế, tài chính của dự án đem lại. Trải qua 11 năm cùng với sự chuyển biến nền kinh tế, sự thay đối nhận thức, tư duy mới trong quản lý kinh doanh của ngành điện, đặc biệt là khi luật điện lực có hiệu lực ngày01/07/2005, nó đã xác lập được rõ ràng trách nhiệm đầu tư của ngành điện, của các đơn vị và cá nhân sử dụng điện, do vậy nguồn lực tài chính của EVN bắt đầu trở nên khó khăn hơn, có hạn hơn, cơ chế cấp vốn như trước đây dần dần không còn nữa thay vào đó là cơ chế tự chủ về tài chính. Điều tấtyếu là EVN phải huy động nguồn lực tài chính từ bên ngoài, trong đó nguồn tài trợ từ WB, AFD, ADB, chiếm tỷ trọng gần 30%. Việc sử dụng nguốn vốn vay của cáctổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài bên cạnh những ưu điểm như thời gian trả nợ dài, lãi suất vay ưu đãi, nó còn những hạn chế như: điều kiện ràng buộc hết sức chặt chẽ, đặc biệt là 1 những ràng buộc về tài chính, người đivay (EVN) phải chứng minh được dự án mà họ muốn được tài trợ phải có hiệu quả cả về kinh tế và tài chính. Ngày 22/06/2006, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 148/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Công tymẹ – Tập đoàn Điện lực Việt Nam (viết tắt là EVN) trên cơ sở tổ chức lại cơ quan quản lý, điều hành và một số đơn vị hạch toán phụ thuộc củaTổng Công ty Điện lực Việt Nam. Tập đoàn Điện lực Việt Nam kinh doanh đa ngành nghề từ ngành nghề truyền thống như: công nghiệp điện năng đến lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, dịch vụ khách sạn, nhà hàng, các quan hệ giữa Công ty mẹ – công ty con, công ty liên kết chuyển từ mệnh lệnh hành chánh sang quan hệ hợp đồng. Điều đó cũng có nghĩa là việc quyết định đầu tư vào một dự án lúc này phải căn cứ vào hiệu quả dự án là chính. Trước những yêu cầu trên và những thách thức hội nhập WTO của Việt Nam, việc hoàn thiện lại hệ thống cáccông cụ phân tích hiệu quả dự án đang là yêu cầu cấp thiết của EVN. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Hoàn thiện hệ thống công cụ phân tích hiệu quả kinh tế – tài chính dự án tại EVN” với mong muốn đóng góp mộtphần nghiên cứu của mình vào sự phát triển của ngành điện nơi mà tôi đang làm việc.