Quan hệ kinh tế quốc tế là một trong những yếu tố cơ bản quyết định sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thế giới, các xu hướng vận động của quan hệ kinh tế quốc tế rất đa dạng, nhưng nổi bật trong giai đoạn hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế khu vực. Quá trình hội nhập này chi phối sự phát triển của tất cả các quốc gia, có thể tạo ra những tác động tích cực cũng như gây ra tác động tiêu cực đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Là một khu vực có vị trí chính trị, kinh tế quan trọng, châu Á - Thái Bình Dương cũng không nằm ngoài xu hướng chung này. Trong mấy chục năm qua, châu Á - Thái Bình Dương đã nổi lên là một khu vực phát triển kinh tế năng động, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế và chính trị thế giới. Từ nửa cuối những năm 1980 của thế kỷ XX, để duy trì tính năng động kinh tế của khu vực, đối phó với sự canh tranh ngày càng cao về kinh tế trên thế giới, một số nước châu Á - Thái Bình Dương đã liên kết với nhau tạo ra nền thương mại và đầu tư quốc tế thông thoáng. Trong bối cảnh đó, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập vào tháng 11 năm 1989 tại Canberra (Australia).
Việt Nam đã là thành viên của APEC từ năm 1998, đã có nhiều cơ hội thuận lợi và nhất là những bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, nhưng cũng phải đối diện với những khó khăn thách thức rất lớn khi tham gia APEC. Do vậy, việc duy trì môi trường hoà bình ổn định và tăng cường hợp tác cùng có lợi với các nước trong khu vực có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
APEC là một thực thể đa dạng, qua hơn một thập kỷ tồn tại, phát triển đã từng bước lớn mạnh và đến nay đã có 21 thành viên với trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Đối với APEC, chúng ta đã và sẽ tiếp tục đưa ra các cam kết trong kế hoạch hành động quốc gia hàng năm, đồng thời tham gia ngày càng sâu vào một số lĩnh vực của kế hoạch hành động tập thể, nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu chung của APEC.
Tuy nhiên, hiểu biết của người dân và nhất là của giới doanh nghiệp về Diễn đàn này còn rất hạn chế, mặt khác xu thế liên kết ở nhiều tầng nấc với nhiều hình thức mức, độ khác nhau đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực. Điều này đòi hỏi một nước đang phát triển như Việt Nam phải đẩy mạnh công cuộc cải cách và phát triển về kinh tế, để tận dụng được sức mạnh của các nhân tố bên ngoài, kết hợp với các tiềm lực bên trong, trong quá trình hợp tác kinh tế - thương mại với các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là với các nước thành viên APEC.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định, bổ sung “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” đã thể hiện chiến lược phát triển hướng ngoại của Việt Nam theo đường lối đổi mới đối ngoại độc lập, tự chủ theo tinh thần Việt Nam “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới” phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của APEC, việc tìm hiểu, nghiên cứu về Diễn đàn luôn là công việc cần thiết và bổ ích. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và APEC ¬¬_ thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu của Khoá luận.
64 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2598 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp tác kinh tế - Thương mại giữa Việt Nam và APEC, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ kinh tế quốc tế là một trong những yếu tố cơ bản quyết định sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thế giới, các xu hướng vận động của quan hệ kinh tế quốc tế rất đa dạng, nhưng nổi bật trong giai đoạn hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế khu vực. Quá trình hội nhập này chi phối sự phát triển của tất cả các quốc gia, có thể tạo ra những tác động tích cực cũng như gây ra tác động tiêu cực đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Là một khu vực có vị trí chính trị, kinh tế quan trọng, châu Á - Thái Bình Dương cũng không nằm ngoài xu hướng chung này. Trong mấy chục năm qua, châu Á - Thái Bình Dương đã nổi lên là một khu vực phát triển kinh tế năng động, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế và chính trị thế giới. Từ nửa cuối những năm 1980 của thế kỷ XX, để duy trì tính năng động kinh tế của khu vực, đối phó với sự canh tranh ngày càng cao về kinh tế trên thế giới, một số nước châu Á - Thái Bình Dương đã liên kết với nhau tạo ra nền thương mại và đầu tư quốc tế thông thoáng. Trong bối cảnh đó, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập vào tháng 11 năm 1989 tại Canberra (Australia).
Việt Nam đã là thành viên của APEC từ năm 1998, đã có nhiều cơ hội thuận lợi và nhất là những bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, nhưng cũng phải đối diện với những khó khăn thách thức rất lớn khi tham gia APEC. Do vậy, việc duy trì môi trường hoà bình ổn định và tăng cường hợp tác cùng có lợi với các nước trong khu vực có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
APEC là một thực thể đa dạng, qua hơn một thập kỷ tồn tại, phát triển đã từng bước lớn mạnh và đến nay đã có 21 thành viên với trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Đối với APEC, chúng ta đã và sẽ tiếp tục đưa ra các cam kết trong kế hoạch hành động quốc gia hàng năm, đồng thời tham gia ngày càng sâu vào một số lĩnh vực của kế hoạch hành động tập thể, nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu chung của APEC.
Tuy nhiên, hiểu biết của người dân và nhất là của giới doanh nghiệp về Diễn đàn này còn rất hạn chế, mặt khác xu thế liên kết ở nhiều tầng nấc với nhiều hình thức mức, độ khác nhau đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực. Điều này đòi hỏi một nước đang phát triển như Việt Nam phải đẩy mạnh công cuộc cải cách và phát triển về kinh tế, để tận dụng được sức mạnh của các nhân tố bên ngoài, kết hợp với các tiềm lực bên trong, trong quá trình hợp tác kinh tế - thương mại với các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là với các nước thành viên APEC.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định, bổ sung “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” đã thể hiện chiến lược phát triển hướng ngoại của Việt Nam theo đường lối đổi mới đối ngoại độc lập, tự chủ theo tinh thần Việt Nam “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới” phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của APEC, việc tìm hiểu, nghiên cứu về Diễn đàn luôn là công việc cần thiết và bổ ích. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và APEC _ thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu của Khoá luận.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận hướng tới nghiên cứu một cách toàn diện về sự hình thành, phát triển quan hệ hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt Nam với các thành viên APEC.
Phân tích cơ sở khách quan: bao gồm cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, mối quan hệ hợp tác này trong những năm qua. Nhận thức rõ thực trạng và giải pháp cần thiết thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận là:
- Nghiên cứu cơ sở pháp lý của hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và APEC.
- Một số nội dung pháp lý về hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và APEC.
- Hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và các nước APEC.
- Thực trạng và giải pháp về hợp tác kinh tế- thương mại Việt Nam và APEC.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo được sử dụng trong Khoá luận là tổng hợp, phân tích, so sánh dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, còn sử dụng các số liệu về phát triển kinh tế của các nước thành viên APEC, về các sự kiện lịch sử trong quá trình hình thành và hoạt động của APEC.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Khoá luận
Khoá luận sẽ làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn của mối quan hệ hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và APEC. Hiểu hơn nữa về Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, thấy được thực trạng kinh tế nước nhà, giúp chúng ta có một cái nhìn đúng đắn, tổng thể về tình hình kinh tế và tiến trình hội nhập APEC.
Khoá luận còn nêu lên một số vấn đề đặt ra, chỉ ra mối liên hệ và tác động qua lại của quá trình hội nhập APEC, từ đó đưa ra ý kiến đề xuất là những việc cần thiết phải làm trong thời gian tới, nhằm đẩy mạnh phát triển mối quan hệ hợp tác này, đưa đất nước phát triển.
5. Kết cấu Khoá luận
Khoá luận bao gồm: Lời nói đầu, Nội dung và Kết luận
Phần Nội dung gồm có 3 chương:
Chương I. Cơ sở pháp lý của hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và APEC.
Chương II. Một số nội dung pháp lý về hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và APEC.
Chương III. Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước APEC.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI
GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC
1. Lịch sử hình thành và phát triển của APEC
1.1. Tính tất yếu khách quan của hợp tác kinh tế - thương mại giữa các nước APEC
1.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai tới cuối thập niên 1960, đã hình thành và phát triển hai khối kinh tế đối lập nhau: khối kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN) và khối kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN); các thể chế liên kết kinh tế toàn cầu và khu vực phát triển mạnh, với sự ra đời của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Từ cuối thập kỷ 1980, các nước XHCN lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc và đến đầu thập kỷ 1990, chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Mỹ có ý đồ muốn thiết lập trật tự thế giới mới, nhưng bị thách thức bởi sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản và mức độ nhất thể hoá về kinh tế, chính trị của Cộng đồng châu Âu được nâng cao. Sự lệ thuộc kinh tế giữa các nước ngày càng rõ rệt, thay thế cho xu thế đối đầu giữa các nước là xu hướng khu vực hoá, liên kết kinh tế thế giới ngày càng gia tăng.
Châu Á - Thái Bình Dương là một khu vực địa lý rộng lớn với Đại Dương Thái Bình Dương chiếm trên một nửa diện tích biển của Trái Đất. Biển Đông và Thái Bình Dương có tiềm năng lớn về khoáng sản và hải sản, đặc biệt là về dầu mỏ, khí đốt. Đây là khu vực rất đa dạng về địa lý, diện tích, dân số và các điều kiện tự nhiên khác.
Gần 30 năm qua, tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của châu Á - Thái Bình Dương đạt trên 6(, cao gấp đôi so với mức tăng trưởng của các khu vực khác trên thế giới. Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, thương mại và đầu tư trong khu vực cũng tăng rất nhanh. Những năm 1980 - 1991 mức tăng trưởng bình quân hàng năm về mậu dịch trong nội bộ khu vực châu Á - Thái Bình Dương lên tới 9,51(, cao hơn tốc độ bình quân 5,61( hàng năm của mậu dịch thế giới cùng thời gian đó [1, tr. 24].
Các hình thức hợp tác song phương và đa phương về đầu tư, thương mại, chuyển giao kỹ thuật, xuất khẩu lao động cũng phát triển rất nhanh, đặc biệt là đối với các nước lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có cường quốc kinh tế mạnh nhất thế giới đó là Mỹ, có vị trí ở khu vực Bắc Mỹ, nằm giữa Canada và Mexico, giáp bắc Thái Bình Dương và bắc Đại Tây Dương, với nguồn vốn lớn, kỹ thuật hùng hậu, thêm vào đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và thị trường tiêu thụ rộng lớn, kim ngạch xuất nhập khẩu vào loại cao nhất thế giới. Ở châu Á, Trung Quốc là một nước có diện tích lớn, nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú, nhiều chủng loại, hơn nữa có nguồn lao động dồi dào. Ngoài ra cũng phải kể đến các nước ASEAN và các nước Đông Dương: có nguồn tài nguyên và lao động tương đối phong phú, lại thiếu vốn và kỹ thuật, là điểm đến của các nhà đầu tư trên thế giới. “ASEAN cũng là đối tượng thu hút nhiều vốn đầu tư của thế giới, vào cuối những năm 1980 bình quân hàng năm tranh thủ được 13,5 tỷ USD, so với 4,6 tỷ USD vào đầu những năm 1980” [2, tr. 7].
Một nhân tố góp phần không nhỏ vào sự phát triển của ASEAN là sự hợp tác giữa các nước thành viên và các nước ở bên ngoài, chủ yếu là các nước được gọi là “đối thoại” bao gồm Mỹ, Canada, Nhật, Australia, Niu Zealand, Liên minh châu Âu, Hàn Quốc. Các quốc gia trong khu vực có những lợi thế so sánh khác nhau, có thể bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng tồn tại và phát triển. Bên cạnh các yếu tố sản xuất và kết cấu ngành nghề khác nhau, thì sự ổn định tương đối về chính trị trong mỗi quốc gia là hết sức quan trọng trong việc tạo ra tiền đề xúc tiến hợp tác kinh tế khu vực, “các nước Đông Nam Á có trách nhiệm chính trong việc tăng cường ổn định kinh tế và xã hội của khu vực” [3, tr. 23]. Các quốc gia sẽ phải tăng cường hợp tác kinh tế với quan điểm hướng ngoại, làm cho sự hợp tác đó đóng góp vào việc thúc đẩy tự do hoá thương mại toàn cầu.
Như vậy, trước tình hình thực tế này và từ đòi hỏi khách quan của tình hình thế giới, khu vực và cũng là để giải quyết những vấn đề toàn cầu, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ra đời là kết quả tất yếu của sự hội tụ các yếu tố trên, đáp ứng yêu cầu liên kết chặt chẽ hơn nữa của các nền kinh tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
1.1.2. Sự ra đời của APEC
Trong bối cảnh đó và trong sự phù hợp lợi ích giữa các quốc gia, 12 quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương là Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc, Thái Lan, Brunây, Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippin và Niu Zealand đã họp tại Caberra (Australia) theo sáng kiến của Thủ tướng Australia lúc đó là Bobhawke để thành lập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương vào tháng 11 năm 1989.
Để củng cố thêm tổ chức và cũng để mở rộng thêm các thành viên mới, tháng 11 năm 1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. Tháng 11 năm 1994 kết nạp thêm Chilê, Mêxico, Papua Niughinê. Tháng 11 năm 1997 Hội nghị Thượng đỉnh thường niên APEC tại Vancuvơ - Canada đã quyết định kết nạp Việt Nam, Nga, Pêru là thành viên chính thức của APEC vào tháng 11 năm 1998. Tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 10 tổ chức tại Kualalampua (Malaysia) ngày 14 tháng 11 năm 1998 Việt Nam chính thức trở thành thành viên APEC.
Với tổng số 21 thành viên, APEC hiện có tổng dân số 2,6 tỷ người (chiếm khoảng 43( dân số thế giới) với tổng GDP là 19,2 ngàn tỷ USD (khoảng 60( tổng GDP toàn cầu). Tổng giá trị giao dịch thương mại của APEC là trên 5,5 ngàn tỷ USD, chiếm khoảng 47( tổng thương mại toàn cầu. Hiện nay APEC đã quyết định ngừng việc kết nạp thành viên mới để chấn chỉnh tổ chức [4, tr. 23].
1.2. Các giai đoạn phát triển của APEC
Từ khi thành lập (1989) đến nay, APEC luôn luôn củng cố và phát triển về nội dung hoạt động của mình, có thể chia làm các giai đoạn sau:
1.2.1. Giai đoạn đầu (1989 - 1993)
APEC tập trung xây dựng khuôn khổ ban đầu cho hợp tác kinh tế, xác định dần các lĩnh vực cần đưa ra hợp tác ở cấp khu vực và thành lập các uỷ ban, nhóm chuyên gia, nhóm công tác. Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ nhất ở Canberra 1989 mới chỉ đưa ra 2 lĩnh vực hoạt động, Hội nghị Bộ trưởng lần thứ hai ở Singapore 1990 đã đưa ra 7 lĩnh vực hợp tác, Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ ba 1991 tại Seoul (Hàn Quốc) đã bổ sung thêm 3 lĩnh vực hoạt động. Tại hội nghị này, tự do hoá mậu dịch và thương mại là một nội dung quan trọng, đề xuất việc tham khảo nguyên tắc của GATT để thúc đẩy tự do hoá, đồng thời cũng nhấn mạnh tính quan trọng của việc mở cửa phát triển kinh tế, hợp tác khoa học - kỹ thuật.
1.2.2. Giai đoạn từ 1993 - 1998
Chú trọng vào tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư với việc xây dựng các văn kiện nền tảng. Tại hội nghị không chính thức các nhà lãnh đạo kinh tế APEC (AELM) lần đầu tiên tại Xiatơn (Mỹ) tháng 11/1993 đã đề ra viễn cảnh: “Tinh thần cộng đồng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương” làm thay đổi căn bản cơ cấu tổ chức của APEC, hình thành cơ cấu quyết sách ba tầng: Hội nghị quan chức cao cấp, Hội nghị Bộ trưởng, Hội nghị cấp cao. Những quyết định quan trọng phải được Hội nghị cấp cao quyết định.
Hội nghị cấp cao lần thứ 2 ở Bogor (Indonesia) tháng 11 năm 1994 đã có cống hiến quan trọng cho việc thúc đẩy APEC phát triển theo chiều sâu, cụ thể hoá kế hoạch đưa ra tại hội nghị Xiatơn. “Tuyên bố Bogor” đưa ra thời gian biểu thực hiện tự do hoá mậu dịch và đầu tư khu vực châu á - Thái Bình Dương đối với các thành viên phát triển không muộn hơn năm 2010, các thành viên đang phát triển không muộn hơn năm 2020.
Hội nghị cấp cao lần thứ 3 tại Osaka - Nhật Bản năm 1995 đã thông qua “chương trình hành động Osaka” với ba nội dung chính: tự do hoá thượng mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế - kỹ thuật.
Hội nghị cấp cao lần thứ 4 tại Manila - Philippin tháng 11 năm 1996 với chủ đề chính: “Từ tầm nhìn đến hành động”đã thông qua kế hoạch hành động quốc gia (IAP) và kế hoạch hành động tập thể (CAP).
Hội nghị cấp cao lần thứ 5 tại Vacuvơ (Canada) tháng 11 năm 1997 xác định chủ đề chính: “Kết nối cộng đồng APEC” xây dựng “Tầm nhìn thế kỷ XXI” khẳng định những mối liên kết hiện nay cũng như trong tương lai giữa các thành viên và cam kết hợp tác trong ba lĩnh vực trụ cột: tự do hoá; thuận lợi hoá; hợp tác kinh tế - kỹ thuật.
Hội nghị cấp cao lần thứ 6 tại Kualalumpua (Malaysia) tháng 11 năm 1998 với chủ đề chính: “Tăng cường nền tảng cho phát triển”. Các nhà lãnh đạo cùng bàn thảo về các biện pháp ngắn và dài hạn để sớm phục hồi và phát triển các nền kinh tế trong khu vực.
1.2.3. Giai đoạn từ 1998 đến nay
Các hoạt động của APEC chuyển hướng sang các hoạt động thuận lợi hoá thương mại và hợp tác kinh tế - kỹ thuật. Bên cạnh đó, cũng chú trọng tới một số nội dung khác tác động sâu sắc tới môi trường kinh tế, an ninh trong khu vực, tăng cường các hoạt động cải thiện hình ảnh của Diễn đàn trên trường quốc tế cũng như tăng cường sự hiểu biết và hỗ trợ của các tầng lớp xã hội.
Hội nghị cấp cao lần thứ 7 tại Ocklân (Niu Zealand) tháng 9 năm 1999 với chủ đề chính: “Thách thức Ocklân” tán thành bắt đầu vòng đàm phán mới của WTO và thông qua các nguyên tắc chính sách cạnh tranh, chuẩn bị xây dựng các tiêu chuẩn về Ngân hàng.
Hội nghị cấp cao lần thứ 8 tại Bandaxeri Bêgaoan (Brunây) tháng 11 năm 2000 với chủ đề chính: “Mang lại lợi ích cho cộng đồng” nhấn mạnh ba trọng tâm là phát triển nguồn nhân lực, doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ thông tin.
Hội nghị cấp cao lần thứ 9 tại Thượng Hải (Trung Quốc) tháng 10 năm 2001 xác định chủ đề chính: “`Đối phó với những thách thức mới trong thế kỷ mới” thông qua “Thoả thuận Thượng Hải”tập trung vào việc mở rộng viễn cảnh APEC. Đưa ra tuyên bố chống khủng bố đầu tiên của các nhà lãnh đạo APEC.
Hội nghị cấp cao lần thứ 10 tại Lôtcabôt (Mêxico) tháng 10 năm 2002 với chủ đề chính: “Thực hiện tầm nhìn APEC về thương mại, đầu tư mở và tự do”. Tuyên bố chống khủng bố thứ hai được đưa ra cùng với việc thông qua sáng kiến về an ninh thương mại trong khu vực.
Hội nghị cấp cao lần thứ 11 tại Băng Kốc (Thái Lan) tháng 10 năm 2003 xác định chủ đề chính: “Thế giới của những khác biệt” “Đối tác vì tương lai” thông qua tiêu chuẩn minh bạch hoá trong tám lĩnh vực cụ thể gồm: dịch vụ, đầu tư, luật và chính sách cạnh tranh, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, sở hữu trí tuệ, thủ tục hải quan, tiếp cận thị trường, đi lại của doanh nhân.
Hội nghị cấp cao lần thứ 12 tại Xantiago (Chilê) tháng 11/2004 chủ đề chính: “Một cộng đồng - tương lai của chúng ta” khẳng định quyết tâm trong việc thúc đẩy sự thịnh vượng và tăng trưởng bền vững của các nền kinh tế thành viên.
Hội nghị cấp cao lần thứ 13 tại Busan (Hàn Quốc) năm 2005 xác định chủ đề chính: “Hướng tới một cộng đồng: đối mặt với thách thức, tạo ra sự thay đổi”.
Hội nghị cấp cao lần thứ 14 tại Hà Nội (Việt Nam) năm 2006 với chủ đề: “Hướng tới cộng đồng APEC năng động vì ổn định và phát triển” thể hiện mục tiêu trước mắt của APEC là “Năng động, ổn định và phát triển” vừa bao hàm tầm nhìn của APEC trong tương lai là “Hướng tới một cộng đồng”. Tại hội nghị này, các ưu tiên đã được APEC 2006 thông qua: Tăng cường và thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư, phát triển bền vững; an ninh con người; phòng chống dịch cúm gia cầm; phát triển nguồn nhân lực; nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ; cải cách APEC; chống tham nhũng; liên kết giữa các thành viên APEC thông qua du lịch và văn hoá. Có thể nói, các ưu tiên hợp tác của APEC thể hiện trên nhiều lĩnh vực theo tôn chỉ mục đích của APEC, thúc đẩy thịnh vượng và phát triển trong khu vực vì lợi ích và an ninh của người dân và doanh nghiệp.
Chủ trì năm APEC 2006 và tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ 14 là vinh dự của Việt Nam, góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam trong APEC, trên trường quốc tế.
Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ 15 sẽ được tổ chức tại Australia.
Như vậy, qua hơn một thập kỷ tồn tại và phát triển, từ một Diễn đàn tư vấn kinh tế với cơ chế hoạt động lỏng lẻo, APEC đã từng bước lớn mạnh và đến nay đã có 21 thành viên. Nội dung hoạt động trong từng năm APEC đều được cụ thể hoá và được thực hiện, trong đó có tính đến sự khác biệt về trình độ giữa các nước thành viên. APEC đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - thương mại ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
2. Cơ cấu tổ chức, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC
2.1. Cơ cấu tổ chức của APEC
Từ khi thành lập đến nay, tuy hình thức là một Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực mở, nhưng qua thời gian hoạt động, cơ cấu tổ chức của APEC cũng được bổ sung, hoàn thiện dần và hoạt động khá chặt chẽ theo mô hình dưới đây:
2.1.1. Cấp chính sách
- Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC:
Là cơ quan có quyết định cao nhất của APEC, nơi định ra các định hướng chiến lược và viễn cảnh dài hạn cho APEC. Hội nghị thường được tổ chức vào tháng 11 hàng năm để phê duyệt các kế hoạch, kiến nghị do Hội nghị Bộ trưởng đệ trình và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho năm kế tiếp. Chủ tịch Hội nghị lãnh đạo do các thành viên thay phiên nhau đảm nhiệm hàng năm. Kết quả đạt được của Hội nghị được thể hiện qua Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo APEC.
- Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Thương mại:
Được tổ chức định kỳ hàng năm, trước Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC.
- Hội nghị các quan chức cao cấp:
Thường được triệu tập thường kỳ ba lần trong một năm, trước khi diễn ra Hội nghị Hộ trưởng Ngoại giao - Thương mại, nhiệm vụ chính là triển khai quyết định của Hội nghị Bộ trưởng, đệ trình các khuyến nghị chương trình hợp tác lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét.
- Hội đồng tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC):
Nhiệm vụ là tăng cường sự hợp tác của APEC với khu vực doanh nghiệp và thúc đẩy sự tham gia của giới doanh nghiệp vào các hoạt động hợp tác của APEC. ABAC bắt đầu hoạt động sau Hội nghị Bộ trưởng Osaka năm 1995. Mỗi nền kinh tế cử một đến ba đại diện, trong đó thường có một đại diện cho SMES (doanh nghiệp vừa và nhỏ).
2.1.2. Cấp chuyên viên
- Uỷ ban thương mại và đầu tư (CTI)
- Uỷ ban kinh tế (EC)
- Uỷ ban quản lý và ngân sách (BMC)
- Uỷ ban điều hành SOM về hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ESC)
Để triển khai các nhiệm vụ và mục tiêu hợp tác kinh tế- thương mại trong APEC, do các nhà lãnh đạo kinh tế giao phó theo từng giai đoạn, hoặc từng năm công tác, APEC thành lập các tiểu ban và nhóm công tác trực thuộc Uỷ ban thương mại và đầu tư và Uỷ ban kinh tế (EC) dưới sự chỉ đạo chung của SOM.
APEC hiện có 11 tiểu ban trực thuộc CTI là: Tiếp cận thị trường bao gồm l