Quyền tác giả hay còn gọi là bản quyền là một thuật ngữ mô tả quyền lợi kinh tế của người sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn, trình diễn, trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền sử dụng, khai thác tác phẩm. Mọi hành vi sao chép, trích dịch, công bố, phổ biến tác phẩm nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của họ đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Quyền tác giả là quyền, dành cho những người sáng tạo ra tác phẩm văn học và nghệ thuật bao gồm cả các chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu. Đây là cách nhìn của tác giả theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, hiện nay, quyền tác giả được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm
77 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận cơ bản về bảo hộ quyền của1 nhà sản xuất bản ghi âm 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HỘ QUYỀN CỦA
NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM
1. Khái quát chung về quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
1.1. Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan
1.1.1. Khái niệm về quyền tác giả
Quyền tác giả hay còn gọi là bản quyền là một thuật ngữ mô tả quyền lợi kinh tế của người sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn, trình diễn, trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền sử dụng, khai thác tác phẩm. Mọi hành vi sao chép, trích dịch, công bố, phổ biến tác phẩm nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của họ đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Quyền tác giả là quyền, dành cho những người sáng tạo ra tác phẩm văn học và nghệ thuật bao gồm cả các chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu. Đây là cách nhìn của tác giả theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, hiện nay, quyền tác giả được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả.
1.1.2. Khái niệm quyền liên quan
Quyền liên quan đến quyền tác giả là khái niệm để chỉ quyền của những người trung gian có kỹ năng chuyên môn thể hiện tác phẩm dưới những hình thức phù hợp để công chúng có thể tiếp cận với tác phẩm. Đó là quyền của nghệ sĩ biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của họ, quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm của họ, quyền của tổ chức phát sóng đối với các chương trình phát sóng của họ.
Có thể nói, quyền tác giả được hiểu theo nghĩa này là hợp lý. Chúng ta đều biết tác giả là có độc quyền công bố, sử dụng, khai thác tác phẩm cũng như trình diễn tác phẩm. Họ luôn muốn tác phẩm của mình được phổ biến tới công chúng càng rộng càng tốt. Tuy nhiên công việc này không thể do tự một mình tác giả đảm đương, mà đòi hỏi cần có những người trung gian có năng lực chuyên nghiệp trợ giúp. Đó chính là những người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, các tổ chức phát sóng. Các quyền của ba chủ thể này gọi là quyền liên quan (hay quyền kề cận), bởi lẽ các quyền đó nảy sinh và có liên quan trực tiếp đến quyền tác giả. Việc thực hiện các quyền này thường gắn với việc thực hiện bản quyền cũng do luật bản quyền điều chỉnh. Cho nên, bên cạnh quy định sự bảo hộ tác giả, người sở hữu quyền tác giả, luật pháp còn quy định việc bảo vệ quyền lợi cho những người hỗ trợ khác, những người giúp phổ biến các tác phẩm. Việc bảo hộ tốt quyền lợi của họ tức là đã gián tiếp bảo hộ quyền của tác giả.
Tuy nhiên, vấn đề bảo hộ quyền đối với nhóm người “liên quan” này ngày càng trở nên gay gắt cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ kĩ thuật số. Công nghệ mới phát triển cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp giải trí khiến cho các hành vi xâm phạm các quyền liên quan diễn ra ngày càng phổ biến, trắng trợn thậm chí nghiêm trọng không kém gì nạn ăn cắp bản quyền. Nhiều giọng ca mới, nhiều tác giả, nhiều kịch bản phim đã không thể ra đời đơn giản chỉ vì các nghệ sỹ này không có đủ động lực để chấp nhận mạo hiểm. Họ biết rằng, dù họ có sản xuất ra sản phẩm gì chăng nữa thì sản phẩm của họ ngay lập tức sẽ bị sao chép, ăn cắp và họ không được cung cấp đủ tiền bạc để phát triển tài năng của mình. Nghiêm trọng hơn cả, trong thời gian gần đây phải kể đến những vi phạm trong lĩnh vực băng đĩa nhạc liên quan tới quyền của nhà sản xuất bản ghi âm.
1.1.3. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất bản ghi âm với tác giả và các chủ thể quyền liên quan khác
Nhà sản xuất bản ghi âm có mối quan hệ chặt chẽ với tác giả và chủ thể của các quyền liên quan khác.
Nhà sản xuất bản ghi âm sử dụng các tác phẩm đã có để hình thành ra các vật phẩm là các băng, đĩa âm thanh. Tác phẩm mà các tổ chức này sử dụng có thể là các tác phẩm gốc, có thể là các chương trình biểu diễn. Cho nên, các tổ chức này trong quan hệ với tác giả, người biểu diễn, họ chính là những người sử dụng tác phẩm - những người sử dụng đặc biệt. Nhưng khi các vật phẩm băng, đĩa hình được tạo ra thì họ lại chính là tác giả của những tác phẩm mới. Những tác phẩm này lại có thể được các tổ chức phát sóng sử dụng để truyền sóng, phổ biến. Vậy là nhà sản xuất vừa là người sử dụng, vừa là tác giả. Từ vị trí có thể xâm phạm quyền của các chủ thể khác, nhà sản xuất trở thành chủ thể có nguy cơ bi xâm phạm quyền. Họ là trung gian, là cầu nối giữa tác giả và công chúng, giúp tác giả phổ biến tác phẩm, nhưng chính họ lại cần một tổ chức khác giúp truyền bá, phổ biến các tác phẩm của mình. Như vậy, các chủ thể này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tương hỗ nhau. Bảo hộ hiệu quả quyền lợi của chủ thể này tức là đã gián tiếp bảo hộ quyền của chủ thể khác.
1.1.4. Lịch sử hình thành bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
Sự ra đời và phát triển không ngừng của khoa học công nghệ kỹ thuật cuối thế kỷ IX là con dao hai lưỡi đối với sự phát triển của ngành công nghiệp ghi âm lúc bấy giờ. Một mặt, nó khiến cho các bản ghi âm được sản xuất ra với số lượng lớn và chất lượng tốt hơn trước nhiều lần, là động lực thúc đẩy ngành công nghiệp giàu tiềm năng này phát triển. Tuy nhiên, chính những thành tựu đó lại tạo ra các bản sao trái phép trở lên dễ dàng hơn, với chi phí thấp hơn. Do vậy, để nền công nghiệp ghi âm có thể tồn tại và phát triển, yêu cầu cấp thiết được đặt ra là phải hình thành một cơ chế bảo hộ đối với đối tượng này không chỉ ở mỗi quốc gia mà trên phạm vi khắp thế giới.
Những ý tưởng đầu tiên nhằm vào bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm đã dựa trên cơ sở bảo hộ bản quyền tác giả. Điều này là có cơ sở, bởi lẽ cũng như những quyền liên quan khác, quyền của các nhà sản xuất bản ghi âm có mối quan hệ chặt chẽ với bản quyền tác giả. Hơn nữa ở thời điểm này, CƯ.Berne đã ra đời và sớm khẳng định vai trò nền tảng đối với việc bảo hộ quyền tác giả trên phạm vi quốc tế. Cho nên, thiết lập mối quan hệ với bản quyền tác giả là điều hợp lý.
Năm 1934, tổ chức CISAC – Liên minh quốc tế của hội các tác giả và nhà soạn nhạc cùng Liên đoàn quốc tế về công nghiệp thu thanh đã ký thoả ước tại Stresa yêu cầu trong những lần sửa đối sắp tới của CƯ.Berne việc bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm phải được đề xuất trong Phụ lục kèm theo công ước.
Sau đó, các tổ chức này đã hợp tác tích cực với Văn phòng của Liên hiệp Berne đề ra dự thảo về việc xây dựng một điều ước đa phương bảo hộ quyền liên quan trong đó có quyền của nhà sản xuất bản ghi âm. Đến đầu những năm 60 của thế kỷ XX, các chuyên gia của WIPO, UNESCO, ILO đã gặp nhau tại Lahay và đưa ra dự thảo Công ước. Ngày 26-10-1961, CƯ. Rome, công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng đã được thông qua tại Rome. Cùng với CƯ.Berne, CƯ.Rome ra đời là cơ sở cho sự hình thành nhiều ĐƯQT đa phương và song phương quan trọng khác, là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm trên thế giới.
Đối với Việt Nam, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm được đặt ra chậm hơn nhiều so với sự phát triển của các quan hệ SHTT khác và rất chậm so với thế giới. Việc nghiên cứu về lĩnh vực này mới chỉ thực sự được quan tâm khoảng 15-20 năm trở lại đây, khi nhà nước có chủ trương đổi mới nền kinh tế. Tuy vậy, chúng ta cũng đã xây dựng được một khung pháp lý khá đầy đủ về lĩnh vực này.
1.2. Khái niệm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
Sự ra đời phát triển của công nghệ trong thời gia vừa qua đã đem đến nhiều lợi ích cho con người. Giờ đây, một buổi biểu diễn đã không còn bị giới hạn trong một hội trường với một lượng khán giả bị hạn chế như trước, bởi lẽ, những bản ghi âm đã tái hiện những buổi biểu diễn của những nghệ sỹ đó và sử dụng lại chúng nhiều lần mà không cần có sự có mặt của họ. Nhờ vậy mà công chúng tiếp cận với các tác phẩm âm nhạc dễ dàng hơn, phổ biến hơn với chi phí rẻ hơn. Chỉ cần một bản copy thôi cũng đủ đáp ứng cho nhu cầu của hàng triệu người.
Những bản ghi âm rõ ràng đã giúp các tác giả, các nhạc sĩ, nghệ sĩ biểu diễn có thể quảng bá tác phẩm của mình, khẳng định tên tuổi của mình tới đông đảo quần chúng một cách thuận lợi và tiết kiệm hơn nhiều so với trước đây. Một ca sĩ không cần phải thực hiện những chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới nhưng các fan hâm mộ trên toàn cầu vẫn có thể biết đến họ, nghe các tác phẩm của họ thông qua những chiếc đĩa-CD, VCD hoặc thông qua việc tải nhạc từ các trang web.
Tuy nhiên, hiện nay, cũng chính các bản ghi âm này lại đang phải đối mặt với những tổn thất rất lớn do nạn xâm phạm bản quyền.
Công nghệ số hoá đã khiến cho các bản ghi âm bị sao chép trái phép dễ dàng nhanh chóng hơn bao giờ hết. Chúng ta đã từng được chứng kiến những đĩa nhạc CD từ những năm 80, 90 được sao chép thành hàng tỉ bản và trở nên phổ biến như thế nào trên mạng Internet trong những năm gần đây. Chưa bao giờ một khối lượng lớn thông tin lại có thể được lưu trữ trong một không gian nhỏ như hiện nay. Đầu thập kỉ 1990, những chiếc đĩa CD với dung lượng trên 600 megabytes đã được những kẻ làm băng đĩa giả sử dụng tràn lan và thu được lợi nhuận lớn tới hàng triệu Đôla. Giờ đây, một thiết bị nghe nhạc di động chỉ bằng một thanh socola cũng có thể chứa được lượng thông tin lớn gấp 70- 80 lần, có nghĩa là sẽ chứa được khoảng 10.000 bài hát. Thật vậy, sức hấp dẫn của các chương trình ghi âm cũng như sự sẵn có trên thị trường của các phương tiện ghi âm tinh vi đã khiến cho vấn đề sao chép trái phép ngày càng gia tăng mà hiện đã trở thành vấn nạn toàn cầu. Sự ra đời của công nghệ ghi âm, đĩa hát, băng catsset đặc biệt là đĩa compact, MP3, Ipod… và sự phát triển nhanh chóng của chúng đã cho thấy nhu cầu bảo hộ các nhà sản xuất chương trình ghi âm cấp thiết như thế nào.
Vậy, ghi âm là gì? Từ điển Bách Khoa Việt Nam đã định nghĩa: “Ghi âm là ghi lại tín hiệu âm thanh trên các vật liệu chuyên dùng để phát lại. Kỹ thuật ghi âm bắt đầu từ phương pháp cơ khí (đĩa có rãnh) đến các vật liệu từ tính và hiện nay đã số hoá cả trên bộ nhớ máy vi tính”
CƯ.Geneva đã quy định: “Bản ghi âm là bất kỳ bản định hình* các âm thanh biểu diễn hay các âm thanh khác* dành riêng cho cơ quan thính giác”.
Theo quy định của Điều 2.2 HƯ.WPPT thì bản ghi âm chỉ là bản định hình thuần tuý về âm thanh, không bao gồm âm thanh ghi trong bản định hình nghe nhìn. Nói rõ hơn, bản ghi âm chỉ nhằm vào định âm một bản nhạc, có thể cùng với lời đã được tác giả phổ nhạc, mà không bao gồm việc ghi âm những tác phẩm văn học và càng không bao gồm việc ghi hình (video) những tác phẩm điện ảnh hay truyền hình.
Như vậy, bản ghi âm là các bản lưu giữ âm thanh, là biểu hiện sự tái hiện các âm thanh của buổi biểu diễn hoặc các âm thanh khác dưới dạng vật chất nhất định mà không bao gồm việc ghi âm những tác phẩm văn học cũng như không bao gồm việc ghi hình nhằm giúp con người có thể nhận biết được những âm thanh đó và có thể sao chép hoặc truyền đạt những âm thanh này.
Đối với âm nhạc, bản ghi âm là phương tiện ưa dùng nhất để truyền đạt tác phẩm tới công chúng. Cũng như sách đối với tác phẩm văn học, bản ghi âm có tác dụng phục vụ cho tác phẩm âm nhạc*. Bản ghi âm được thực hiện thông qua hoạt động thu âm (phonorecords) là hoạt động cố định âm thanh ngoài phần nhạc đệm cho một bộ phim. Thiết bị thu âm có thể là băng, đĩa CD, chíp máy tính có chứa âm thanh và những thiết bị tương tự.
Các bản ghi âm có thể chỉ ghi riêng phần nhạc, riêng phần lời hoặc cả phần nhạc và phần lời. Để được phép ghi âm, người muốn ghi âm phải được sự cho phép của cả chủ sở hữu quyền tác giả đối với một tác phẩm phần nhạc cũng như chủ sở hữu quyền tác giả đối với phần lời bài hát. Một số quốc gia còn quy định, người ghi âm cũng phải được phép của các nghệ sỹ trình bày phần nhạc và hát phần lời.
Nhà sản xuất bản ghi âm là một người hoặc một pháp nhân định hình lần đầu các âm thanh của buổi biểu diễn hay các âm thanh khác*. Có nghĩa là sản phẩm mà nhà sản xuất bản ghi âm tạo ra phải là bản gốc của tác phẩm, là sự hiện thân nguyên bản âm thanh của một buổi biểu diễn trực tiếp hoặc bất kỳ một âm thanh nào khác mà không được lấy lại từ một bản ghi âm có trước.
Như vậy, chỉ được coi là nhà sản xuất bản ghi âm khi người đó thực hiện việc định hình lần đầu âm thanh của buổi biểu diễn hay âm thanh khác. Việc định hình âm này, có thể được thực hiện trên băng, đĩa hoặc trong bộ nhớ số. Chẳng hạn Bến Thành audio đã tổ chức việc định hình âm lần đầu chương trình ca nhạc Làn sóng xanh. Bến Thành Audio là nhà sản xuất bản ghi âm đối với chương trình ca nhạc này. Cần lưu ý là, pháp luật chỉ bảo hộ quyền của nhà sản xuất đối với bản định âm lần đầu mà không bảo hộ đối với bản sao từ bản định âm lần đầu, tức là tác phẩm được bảo hộ phải là bản gốc*. Hơn nữa, không chỉ có tổ chức mới có thể là nhà sản xuất chương trình ghi âm. Điều này sẽ đúng cách đây một vài năm. Bởi chỉ có tổ chức mới có đủ khả năng về kỹ thuật và tài chính để thực hiện việc định hình âm, sản xuất băng đĩa ghi âm. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, hiện nay cá nhân hay một nhóm cá nhân cũng có đủ khả năng thực hiện hoạt động này. Do đó, nhà sản xuất bản ghi âm có thể là pháp nhân cũng có thể là cá nhân.
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm là tổng thể các quy phạm quy định và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của nhà sản xuất bản ghi âm đối với các chương trình ghi âm dựa trên tác phẩm gốc của chủ sở hữu quyền tác giả.
Mục đích của quyền nhà sản xuất bản ghi âm là đảm bảo bù đắp cho các tác giả, cho phép họ làm chủ và khai thác tác phẩm của mình, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoat động sáng tạo tinh thần.
Cũng như các quyền liên quan khác, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm có hai đặc điểm sau:
Thứ nhất: Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm cũng được hình thành dựa trên việc sử dụng môt tác phẩm gốc*. Nhà sản xuất bản ghi âm tổ chức thu âm buổi biểu diễn của các nghệ sỹ hoặc các âm thanh khác, nhưng các nghệ sỹ này lại phải dùng những tác phẩm âm nhạc khác để trình diễn. Như vậy, xét cho đến cùng quyền của nhà sản xuất bản ghi âm cũng được hình thành dựa trên việc sử dụng một tác phẩm gốc. Do đó, chủ thể quyền nhà sản xuất bản ghi âm phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân và quyền tài sản không chỉ của người biểu diễn mà cả của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm gốc.
Thứ hai: Chương trình ghi âm cũng phải có tính nguyên gốc nghĩa là do chính công sức của nhà sản xuất bản ghi âm tạo ra và là bản ghi âm đầu tiên.
Để tạo ra những bản ghi âm, người sản xuất phải đầu tư công sức để tổ chức việc ghi âm, phải bỏ ra một lượng tài chính không nhỏ để thực hiện công việc này. Nhà sản xuất tuy không trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nhưng lại có sáng tạo trong việc thể hiện tác phẩm. Vì vậy, bảo hộ những nhà sản xuất chân chính, những người đã thực sự phải bỏ công sức, tiền bạc ra trước các đối thủ cạnh tranh, chống các hành vi xâm phạm thành quả của người khác bằng việc sao chép bất hợp pháp băng, đĩa ghi âm là điều tất yếu.
2. Bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
2.1. Khái niệm
Bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm là những cách thức, biện pháp đựơc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng nhằm tạo ra hành lang pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhà sản xuất bản ghi âm cũng như những chủ thể có liên quan khác, chống lại bất kỳ sự vi phạm nào.
Nhà sản xuất bản ghi âm được bảo hộ quyền phải là tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh của buổi biểu diễn hoặc các âm thanh khác.
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm sẽ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả và đáp ứng được một trong những điều kiện sau:
Các nhà sản xuất bản ghi âm là công dân nước đó;
Bản ghi âm
được định hình lần đầu trên lãnh thổ quốc gia đó*;
Bản ghi âm được công bố lần đầu trên lãnh thổ quốc gia đó* hoặc được coi là lần đầu tiên được công bố tại quốc gia đó*
Không giống như trong lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp, bảo hộ bản quyền nói chung, bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm nói riêng phát sinh từ thời điểm tác phẩm được hình thành dưới một hình thức nhất định mà không buộc phải đăng ký, nộp lưu chiểu, nộp tiền hay những thủ tục tương tự, vì những thủ tục này không được coi là điều kiện để được bảo hộ bản quyền. Tuy nhiên, để tránh những rắc rối về sau, để có bằng chứng bác bỏ những hành vi xâm phạm của những đối tượng vi phạm bản quyền, pháp luật các nước khuyến khích tác giả, nhà sản xuất bản ghi âm tiến hành đăng ký bản quyền đối với những tài sản trí tuệ của mình.
Cũng giống như quyền của tổ chức phát sóng, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm là quyền tài sản. Điều này có sự khác biệt so với quyền của tác giả, của người biểu diễn. Sự khác biệt đó có thể nói xuất phát từ sự đóng góp chất xám vào sản phẩm của các nhóm quyền. Nói như vậy không có nghĩa là thành quả của nhà sản xuất bản ghi âm không có chất xám. Tất cả các đối tượng của quyền SHTT đều là những thành quả của lao động trí tuệ sáng tạo. Tuy nhiên, đối với nhà sản xuất bản ghi âm thì thành quả ấy chịu tác động của hoạt động đầu tư về kinh tế, kỹ thuật nhiều hơn, đồng thời không để lại dấu ấn cái tôi đậm nét như ở tác phẩm văn học nghệ thuật và chương trình biểu diễn. Quyền được bảo hộ của nhà sản xuất bản ghi âm là quyền tài sản. Trong quyền tài sản này có chứa giá trị phi vật chất. Đó chính là năng lực cạnh tranh của nhà sản xuất. Do là quyền tài sản nên quyền này có thể được chuyển dịch cho người khác thông qua hợp đồng, thừa kế hoặc thông qua việc thừa kế quyền.
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm được bảo hộ có thời hạn. Các công ước quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia trên thế giới đều quy định thời gian bảo hộ tối thiểu đối với bản ghi âm là 20 năm kể từ khi kết thúc của năm mà các âm thanh thể hiện trong bản ghi âm được ghi âm lần đầu hoặc của năm mà bản ghi âm được công bố lần đầu.
Trong khoảng thời gian này, mọi hành vi sao chép không được sự đồng ý của nhà sản xuất bản ghi âm đều được coi là hành vi xâm phạm quyền. Tuy nhiên, để đảm bảo rằng chủ sở hữu không lạm dụng những đặc quyền dành cho họ nhằm tạo điều kiện phổ biến, sử dụng những sáng tạo nghệ thuật, pháp luật các nước quy định một số hạn chế và ngoại lệ nhằm đảm bảo sự công bằng giữa quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu và người sử dụng. Theo đó, các bản ghi âm có thể được sử dụng hạn chế (fair use). Điều này nhằm nhấn mạnh việc sao chép bản ghi âm hoàn toàn không vì mục đích kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm và không xâm phạm tới các quyền lợi khác của nhà sản xuất, việc sử dụng đó hoàn toàn cho cá nhân để thưởng thức, để nghiên cứu thì không phải là hành vi xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm.
Mặc dù vậy, trên thực tế việc quản lý vấn đề này gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều khi người ta sao chép bản ghi âm với danh nghĩa sử dụng cá nhân nhưng thực chất là bán thu tiền, sao chép lại băng, đĩa nhạc để phát ở nhà hàng, khách sạn hay tải nhạc điện thoại, phục vụ cho khách. Những trường hợp đó thì không thể coi là dùng cho mục đích cá nhân được.
Ngoài ngoại lệ trên, mọi hành vi sử dụng bản ghi âm mà không có sự thoả thuận đều được coi là hành vi xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm.
Những hành vi có thể bị coi là xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm là:
° Chiếm đoạt quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
° Mạo danh nhà sản xuất bản ghi âm;
° Công bố*, sản xuất, phân phối bản ghi âm mà không được phép của nhà sản xuất bản ghi âm;
° Sao chép, trích ghép đối với bản ghi âm mà không được phép của nhà sản xuất bản ghi âm;
+ Dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không được phép của nhà sản xuất bản ghi âm;
+ Phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng bản ghi âm khi biết hoặc có cơ sở để biết thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử đã bị dỡ bỏ hoặc đã bị thay đổi mà không được phép của nhà sản xuất bản ghi âm.
2.2. Nội dung quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
2.2.1. Nghĩa vụ của nhà sản xuất bản ghi âm
Để tạo ra các bản ghi âm, nhà sản xuất bản ghi âm phải sử dụng tác phẩm hoặc chương trình biểu diễn của người khác.Vì vậy, họ phải có nghĩa vụ với tác giả, hoặc chủ sở hữu tác phẩm và người biểu diễn, bao gồm những nghĩa vụ sau:
ª Khi sử dụng tác phẩm chưa được công bố, người sản xuất bản ghi âm phải xin phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩ